THÔNG ĐIỆP THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU


   THÔNG ĐIỆP THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU



CỦA ĐỨC THÁNH CHA

BÊNÊĐÍCTÔ XVI

GỞI CÁC ĐỨC GIÁM MỤC

CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ

CÁC TU SĨ NAM NỮ

VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU

VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO

(Thông Điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu - Dẫn Nhập và Phần I )

DẪN NHẬP


1. "Thiên Chúa là tình yêu, và hễ ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy"(1 Ga 4:16). Những lời này trích từ thư Thứ Nhất của Thánh Gioan diễn tả rất rõ ràng trọng tâm của đức tin Kitô: hình ảnh Thiên Chúa theo Kitô Giáo, hình ảnh con người và con đường của họ rút ra từ đó. Cũng trong thư này, Thánh Gioan cũng đưa ra một dạng tổng kết về đời sống Kitô Giáo: "Chúng ta đã nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta".


Chúng ta đã tin vào tình yêu Thiên Chúa: người Kitô hữu có thể diễn tả quyết định căn bản của đời mình như thế. Là Kitô hữu không phải là hệ quả của một lựa chọn luân lý hay một lý tưởng cao quý, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một người; một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó là một hướng đi có tính chất quyết định. Phúc Âm Thánh Gioan mô tả biến cố này trong những từ sau: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì... được sống muôn đời."(Ga 3:16). Khi nhìn nhận vị thế trung tâm của tình yêu, đức tin Kitô giữ lại phần nòng cốt của niềm tin Do Thái, đồng thời cho đức tin này một chiều sâu và một chiều rộng mới. Những tín hữu Do Thái Giáo nhiệt thành thường cầu nguyện hàng ngày với những lời trong sách Đệ Nhị Luật diễn tả trọng tâm cuộc sống của họ: "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em." Chúa Giêsu đã kết hiệp vào một giáo huấn duy nhất lề luật mến Chúa và yêu người được tìm thấy trong sách Lê Vi "Ngươi phải yêu tha nhân như chính mình"(Lv 19:18; x Mc 12:29-31). Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x Ga 4:10), tình yêu giờ đây không chỉ là một "giới răn"; nhưng là lời đáp trả cho hồng ân tình yêu qua đó Thiên Chúa gần gũi với chúng ta.

Trong một thế giới nơi danh thánh Thiên Chúa đôi khi lại được gán ghép với sự báo thù hay ngay cả nghĩa vụ phải căm ghét và bạo lực, điều nói trên vừa hợp thời vừa cụ thể. Vì thế, trong thông điệp đầu tiên của mình, tôi muốn đề cập đến tình yêu Thiên Chúa trao ban hào phóng trên chúng ta và đến lượt chúng ta phải thông truyền cho người khác. Về cơ bản, đó là điều mà hai phần chính của Thông Điệp này đề cập đến, và chúng liên hệ hỗ tương với nhau cách sâu xa.

Phần đầu tiên có tính chất lý thuyết nhiều hơn vì tôi muốn lúc này đây – buổi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình – xác định rõ một số dữ kiện thiết yếu liên quan đến tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại cách huyền nhiệm và nhưng không, cùng với mối liên hệ nội tại giữa Tình Yêu đó và thực tại của tình yêu nhân loại.
Phần thứ hai có tính chất cụ thể hơn vì nó bàn đến đến việc thực hành giới răn yêu thương tha nhân của Giáo Hội. Lý lẽ dẫn đến những hệ quả rộng lớn, nhưng một sự bàn cãi dài dòng sẽ đi quá phạm vi của Thông Điệp này. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến một số yếu tố căn bản để khơi dậy trong thế giới một năng động mới mẻ cho sự dấn thân của con người đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa.

 
PHẦN I

TÍNH ĐƠN NHẤT CỦA TÌNH YÊU TRONG TẠO VẬT VÀ TRONG LỊCH SỬ CỨU CHUỘC


Một vấn nạn ngôn ngữ

2. Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta là một vấn đề căn bản đối với cuộc sống và đặt ra những câu hỏi quan trọng: Thiên Chúa là ai và chúng ta là ai. Khi suy tư về điều này, chúng ta lập tức thấy mình bị ngăn trở bởi một vấn nạn ngôn ngữ. Ngày nay, thuật ngữ "tình yêu" đã trở thành một trong những từ được dùng cũng như bị lạm dụng thường xuyên nhất, một từ chúng ta gán cho nhiều ý nghĩa khác nhau. Dù Thông Điệp này sẽ bàn chủ yếu về nhận thức và thực hành của tình yêu trong Thánh Kinh và trong Truyền Thống của Giáo Hội, chúng ta không thể đơn giản bỏ qua không nói đến ý nghĩa của từ này trong các nền văn hóa khác nhau và trong ngôn ngữ thường dùng hiện nay.

Trước hết, chúng ta hãy bàn về phạm vi ngữ học rộng lớn của từ "tình yêu": chúng ta nói về lòng yêu nước, yêu nghề, tình yêu bè bạn, sự yêu thích công việc, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, tình yêu giữa các thành viên trong gia đình, tình yêu người và lòng mến Chúa. Tuy nhiên, giữa cơ man những ngữ nghĩa này, có một điều nổi bật lên: đó là tình yêu giữa một người nam và một người nữ, trong đó xác hồn được kết hiệp bất phân ly và mở ra cho nhân loại thấy thấp thoáng lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được. Tình yêu này có lẽ là kiểu mẫu của tình yêu; tất cả các dạng thức yêu thương khác tức khắc tỏ ra mờ nhạt khi so sánh với thứ tình yêu này. Vì thế, một vấn đề được nêu lên: có phải tất cả những dạng thức của tình yêu về cơ bản chỉ là một, cho nên tình yêu, trong những biểu thị đa dạng của nó, tối hậu chỉ là một thực tại duy nhất; hay đơn giản là chúng ta dùng một từ để chỉ định nhiều thực tại hoàn toàn khác biệt?

Eros” ("Tình ái") và “Agape” ("tình bác ái") – sự khác biệt và đồng nhất

3. Tình yêu giữa một người nam và một người nữ, thứ tình không bị an bài trước và cũng chẳng bị bắt buộc, nhưng cách nào đó tự xảy đến trên con người, được gọi là eros(tình ái) trong tiếng Hy Lạp cổ. Chúng ta ghi nhận tức khắc nơi đây rằng Bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp nhắc đến từ eros chỉ hai lần, trong khi bản Tân Ước không hề dùng đến từ này: trong ba từ Hy Lạp nói về tình yêu là eros, philia (tình bằng hữu) và agape (tình bác ái), các tác giả Tân Ước thích dùng từ sau cùng hơn, là từ ít được dùng trong tiếng Hy Lạp. Từ philia, tình bằng hữu, được dùng với ý nghĩa sâu xa hơn trong Tin Mừng của Thánh Gioan để diễn tả quan hệ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Khuynh hướng tránh dùng từ eros, cùng với viễn ảnh của tình yêu được diễn tả qua từ agape, chắc chắn nói lên ra một điều gì đó mới mẻ và phân biệt trong nhận thức Kitô Giáo về tình yêu. Trong trào lưu chỉ trích Kitô Giáo, bắt đầu từ thời Triết Học Ánh Sáng và càng ngày càng quá khích, quan niệm của Kitô Giáo về tình yêu thường được xem là điều gì đó rất tiêu cực. Theo Friedrich Nietzsche, Kitô Giáo đã đầu độc từ eros, và về phần mình, trong khi không hoàn toàn từ bỏ từ này đã dần dà đưa nó xuống hàng thứ yếu. [1] Ở đây, triết gia Đức mô tả một quan niệm rất phổ biến: chẳng phải là Giáo Hội, với tất cả những lề luật và cấm đoán của mình, đang biến thứ quý nhất trong cuộc đời thành ra một điều cay đắng đó sao? Chẳng phải Giáo Hội đang thổi còi chặn lại khi niềm hoan lạc, một hồng ân do Tạo Hóa trù định, đang mang đến cho chúng ta một niềm hạnh phúc như một nếm thử nhất định về Thiên Chúa đó sao?

4. Nhưng có đúng thế không? Có thực Kitô Giáo đã hủy diệt từ eros? Chúng ta hãy hướng một cái nhìn về thế giới thời tiền Kitô Giáo. Văn hóa Hy Lạp – không khác gì những nền văn hóa khác – xem eroschủ yếu như một trạng thái say đắm, một tình trạng lý trí bị đè bẹp bởi một thứ "điên dại thần bí" lôi kéo con người khỏi cuộc sống hạn hẹp phàm nhân của mình và cho phép con người, trong chính tiến trình bị say đắm bởi lực thần bí ấy, hưởng được một niềm hạnh phúc cao độ. Tất cả những quyền lực khác trên trời dưới đất đều tỏ ra là thứ yếu “Omnia vincit amor” (Tình yêu chinh phục mọi thứ) Người Trinh Nữ đã nói thế trong vở Bucolics – và chàng đáp lại “et nos cedamus amori ” – (cả chúng ta cũng hãy chịu khuất phục tình yêu). [2] Trong các tôn giáo, thái độ này tìm được thấy trong các giáo phái tôn thờ khả năng sinh sản, chẳng hạn như tục mại dâm "linh thiêng" nở rộ trong nhiều đền thờ. Eros, vì thế, được thờ như một thứ quyền năng thiêng liêng, đồng hàng với Thiên Chúa.

Cựu Ước mạnh mẽ chống lại thứ hình thái tôn giáo này, coi đó là tiêu biểu cho một cám dỗ mạnh mẽ chống lại đức tin độc thần, và chiến đấu chống lại nó như một hình thái sa đọa của tôn giáo. Tuy nhiên, Cựu Ước đã không hề loại bỏ erosđúng nghĩa; nhưng chỉ tuyên chiến đối với hình thái băng hoại của nó vì sự thần thánh hóa giả tạo eros thực ra tước đi mất thế giá của nó và khiến con người bị hạ giá. Thực vậy, những gái điếm trong các đền thờ, những người phải cúi đầu trước trạng thái say sưa thần bí này đã không được đối xử như con người và như những cá nhân, nhưng đơn giản được dùng như một phương tiện khơi dậy "cơn điên thần bí": chẳng những không hề được coi là những nữ thần, họ là những con người trần tục bị lợi dụng. Thứ tình ái mất lý trí và bừa bãi không là một sự thăng hoa "xuất thần" hướng về Thiên Chúa, nhưng là một sự sa ngã, một bước thụt lùi của con người. Hiển nhiên. eros cần được uốn nắn và thanh luyện nếu nó muốn đem đến không chỉ niềm hoan lạc chóng qua, mà cả một nếm thử trước cho tột đỉnh cuộc sống chúng ta, của phúc thật mà toàn thể loài người trông đợi.

5. Có hai khía cạnh xuất hiện thật rõ rệt từ tổng kết chớp nhoáng về khái niệm eros xưa và nay này. Trước hết, có liên hệ nhất định giữa tình yêu và Thiên Chúa: tình yêu hứa hẹn sự vô biên, vĩnh hằng – một thực tại xa hơn và khác biệt hoàn toàn với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng con đường đạt đến mục tiêu này không phải chỉ đơn thuần là tùng phục theo bản năng. Sự thanh luyện và thăng tiến trong sự trưởng thành là cần thiết; và những điều này cũng phải trải qua con đường từ bỏ mình. Không những không từ khước hay "đầu độc" eros, những điều này chữa lành nó và khôi phục lại sự cao cả đích thực của nó.

Điều này trước hết và trên hết là do bởi sự kiện con người được tạo dựng cả xác lẫn hồn. Con người thật sự là chính mình khi xác hồn được kết hiệp mật thiết; thách đố của eros có thể nói là thực sự được vượt qua khi sự kết hiệp này được đạt đến. Nếu một người chỉ mong được thanh thoát tinh thần và khước từ thể xác coi thân xác mình như gia sản của một động vật mà thôi, thì khi đó cả hồn lẫn xác đều đánh mất đi vị thế của chúng. Ngược lại, nếu người ấy từ khước phần hồn và coi trọng phần xác như thực tại duy nhất, người ấy cũng đánh mất đi sự cao trọng của mình. Triết gia theo chủ nghĩa hưởng lạc Gassendi thường chào Descartes với lời chào hóm hỉnh: "Hồn Ơi!" và Descartes thường đáp lại "Xác Ơi!". [3] Khi yêu không chỉ có hồn yêu hay xác yêu mà thôi, song chính là con người, một nhân vị, một tạo vật hiệp nhất gồm cả thể xác và linh hồn. Chỉ khi nào cả hai chiều kích thật sự được kết hiệp, lúc đó con người mới đạt đến tầm vóc đúng mức của mình. Chỉ khi đó tình yêu – eros – mới có thể trưởng thành và đạt đến sự cao cả đích thật của nó.

Ngày nay, Kitô Giáo trong quá khứ thường bị chỉ trích là đối nghịch với thân xác; và cũng đúng là những khuynh hướng như thế đã từng xảy ra. Tuy nhiên, cái lối tôn sùng thân xác thời nay là lầm lạc. Eros, bị giản lược thành "tính dục" thuần tuý, đã trở nên một thứ hàng hóa, đơn giản là "đồ vật" mua bán, hay hơn thế nữa chính con người trở thành một thứ hàng hóa. Điều này khó mà là một sự đề cao của con người đối với thân xác. Trái lại, từ nay con người xem thân xác mình và tính dục của mình thuần tuý là phần chất thể của chính mình, được dùng và bị lợi dụng tùy ý. Con người cũng không coi thân xác là một nơi để thực thi quyền tự do của mình, nhưng chỉ như một thứ để cố làm cho thoải mái và vô hại. Ở đây, chúng ta thực sự phải đương đầu với sự hạ giá thân xác con người: thân xác không còn được hội nhập vào sự tự do hiện sinh tổng thể của chúng ta; cũng không còn là biểu hiệu sinh động của toàn thể con người chúng ta nữa, nhưng hầu như bị đóng khung hoàn toàn trong lãnh vực thuần tuý sinh lý. Thái độ có vẻ suy tôn thân xác như thế có thể nhanh chóng biến thành sự thù nghịch đối với thể xác. Niềm tin Kitô, ngược lại, luôn xem con người là một thể thống nhất gồm hai phần, một thực tại trong đó tinh thần và thể chất kết hiệp lại, và trong đó cả hồn lẫn xác được nâng lên một thế giá mới. Eroschân chính có khuynh hướng đưa con người hướng đến Thiên Chúa "trong sự ngất trí", dẫn đưa chúng ta vượt qua chính mình; tuy nhiên chính vì lý do này, nó đòi hỏi con đường hướng thượng, từ bỏ, thanh luyện và chữa lành.

6. Một cách cụ thể, con đường hướng thượng và thanh luyện này đưa ta đến đâu? Tình yêu phải được cảm nhận thế nào để có thể hoàn toàn nhận ra hứa hẹn trần tục và thiêng liêng của nó? Ở đây, chúng ta có thể tìm ra một chỉ dẫn đầu tiên và quan trọng trong Sách Diễm Ca, một sách trong Cựu Ước rất quen thuộc với những nhà thần bí. Theo cách hiểu của nhiều người, những bài thơ trong sách này thoạt đầu là những bài tình ca, có lẽ dành cho một lễ cưới Do Thái và có dụng ý ca ngợi tình yêu hôn nhân. Trong bối cảnh này, điều đáng ghi nhận là trong suốt cuốn sách, có hai từ Hêbrơ đã được dùng để nói về "tình yêu". Trước tiên là từ dodim, một dạng số nhiều nói lên một tình yêu không chắc chắn, chưa quyết định dứt khoát và còn đang kiếm tìm. Từ này rồi ra được thay bằng từ ahab, mà bản dịch Cựu Ước sang tiếng Hy Lạp chuyển sang thành một từ đồng âm agape, mà như chúng ta thấy, trở nên thành ngữ tiêu biểu cho ý niệm tình yêu trong Thánh Kinh. Tương phản với một tình yêu chưa quyết, "đang tìm kiếm", từ này diễn tả cảm nhận của một tình yêu trong đó có sự khám phá đích thực lẫn nhau, vượt qua tính chất ích kỷ bao trùm trước đó. Tình yêu giờ đây trở thành mối quan tâm và lo lắng cho người khác. Nó không còn là tìm kiếm chính mình, hay một mê say hạnh phúc; thay vào đó nó tìm kiếm điều thiện cho người mình yêu: nó trở thành sự từ bỏ chính mình và sẵn sàng chấp nhận cả hy sinh nếu cần.

Đó là một phần trong sự vươn lên đến những cấp độ cao hơn của tình yêu, và trong sự thanh luyện bên trong mà tình yêu giờ đây đang tìm kiếm hầu trở nên một chọn lựa dứt khoát, trong một ý thức gồm hai mặt: cả tính độc quyền (chỉ một người cụ thể mà thôi) lẫn sự "vĩnh viễn". Tình yêu bao gồm toàn bộ hiện thực của cuộc sống trong mỗi chiều kích của nó, kể cả thời gian. Khó mà khác đi được, vì hứa hẹn của tình yêu hướng đến một mục tiêu chung cuộc: tình yêu nhắm đến sự vĩnh viễn. Tình yêu thật sự là "một trạng thái ngây ngất", không phải trong ý nghĩa của một thoáng mê say, nhưng hơn thế nó như là một cuộc hành trình, một cuộc xuất hành ra khỏi cái tôi đóng kín hướng vào bên trong để vươn tới sự tự do qua việc cho đi chính mình, và như thế hướng đến sự khám phá đích thật chính mình và chung cuộc là sự khám phá về Thiên Chúa: "Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống"(Lc 17:33), như Chúa Giêsu đã nói trong suốt các sách Tin Mừng (x. Mt 10:39; 16:25; Mc 8:35; Lc 9:24; Ga 12:25). Trong những lời này, Chúa Giêsu vẽ ra con đường của chính Ngài, qua Thập Giá dẫn đến Phục Sinh: con đường của hạt lúa rơi xuống đất và chết đi, để sinh nhiều hoa trái. Bắt đầu từ những chiều kích thâm sâu trong lễ hy sinh của Ngài và trong tình yêu đạt đến mức viên mãn sau đó, Ngài vẽ ra cho chúng ta thấy qua những lời này đâu là yếu tính của tình yêu và thực sự đâu là yếu tính của chính cuộc sống.

7. Luận lý nội tại của những suy tư sơ khởi có chút triết lý về yếu tính của tình yêu này dẫn đưa chúng ta đến trước thềm của niềm tin trong Thánh Kinh. Chúng ta bắt đầu đưa ra câu hỏi liệu rằng những ý nghĩa khác biệt, đôi khi ngay cả trái ngược với nhau, của từ "tình yêu" có nói lên điều gì đồng nhất sâu xa bên dưới, hay trái lại chúng mãi mãi không liên quan với nhau, và tồn tại song song với nhau. Đáng kể hơn, chúng ta đặt vấn đề không biết sứ điệp tình yêu mà Thánh Kinh và Truyền Thống Giáo Hội công bố cho chúng ta có những điểm nào chung với cảm nhận tình yêu thông thường của nhân loại, hay nó đối nghịch với cảm nhận này.Điều này lại đưa chúng ta đến sự xem xét hai từ nền tảng: eros, như là thuật ngữ để chỉ tình yêu "trần thế" và agape, chỉ tình yêu được đặt cơ sở và hình thành bởi đức tin. Hai ý niệm này thường được tương phản như tình yêu "nhận về" và tình yêu "cho đi". Có những cách phân loại khác tương tự như vậy, chẳng hạn như sự phân biệt giữa tình yêu chiếm hữu và tình yêu vị tha (amor concupiscentiae – amor benevolentiae), đôi khi người ta cũng thêm vào trong cách phân loại này thứ tình yêu lợi dụng.

Trong bàn thảo triết học và thần học, những phân biệt này thường được đẩy xa đến độ hình thành nên một số đối nghịch rõ rệt giữa chúng: tình yêu cho đi hay vị tha - agape là kiểu tình yêu Kitô Giáo, trong khi tình yêu nhận về, chiếm hữu hay ham muốn là thứ tình không Kitô Giáo, và đặc biệt là tình yêu trong văn hóa Hy Lạp. Nếu đối nghịch này đi đến mức cực đoan, tinh thần Kitô Giáo sẽ bị bứng khỏi những liên hệ thiết yếu với hiện thực căn bản của loài người, và sẽ trở nên xa lìa với thế giới, có thể là đáng ngưỡng mộ đấy, nhưng dứt khoát tách ly khỏi cấu trúc phức hợp của cuộc sống con người. Tuy nhiên, erosagape - tình yêu nhận về và cho đi – không bao giờ có thể hoàn toàn tách rời. Hai thứ tình này, trong những khía cạnh khác nhau của chúng, càng tìm được sự tương đồng thích đáng trong cùng một thực tại tình yêu thì bản chất thực sự của tình yêu càng thường được nhận ra rõ ràng. Dù cho eros lúc đầu chủ yếu là ham muốn và đòi hỏi, trước quyến rũ của hứa hẹn hạnh phúc được cận kề bên nhau, người ta càng ngày càng bớt chú ý đến chính mình, gia tăng tìm kiếm hạnh phúc cho người kia, lo lắng cho người yêu, cho đi chính mình và muốn "hiện diện" cho người kia. Yếu tố agape vì thế bước vào tình yêu, nếu không eros nghèo nàn và ngay cả đánh mất đi bản chất của chính nó. Mặt khác, người ta không thể chỉ sống bằng tình yêu vị tha, và cho đi. Ai muốn trao ra tình yêu thì cũng muốn được nhận lại tình yêu như một quà tặng. Chắc chắn, như Thiên Chúa nói với chúng ta, ta có thể trở thành nguồn mạch tuôn chảy những dòng nước hằng sống (x Ga 7:37-38). Nhưng để trở nên một nguồn mạch như thế, ta phải thường xuyên uống mãi từ nguồn nguyên thủy là Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trái tim bị lưỡi đòng đâm thấu của Ngài tuôn đổ tình yêu của Thiên Chúa (x Ga 19:34).

Trong trình thuật cây thang của Tổ Phụ Giacóp, các Nghị Phụ của Giáo Hội thấy mối liên hệ không thể tách rời giữa tình yêu nhận về và tình yêu cho đi, giữa erostìm kiếm Thiên Chúa và agape trao đi hồng ân nhận được, biểu trưng bằng nhiều cách khác nhau. Trong đoạn Thánh Kinh này, chúng ta đọc được Tổ Phụ Giacóp thấy như thế nào trong một giấc mơ: trên tảng đá dùng làm chỗ gối đầu của ngài, có một cái thang bắc lên trời, trên đó các thiên thần đang lên xuống (x. St 28:12; Ga 1:51). Một lối diễn dịch đánh động đặc biệt về thị kiến này được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đưa ra trong thông điệp Pastoral Rule (Quy tắc Mục Vụ). Ngài nói với chúng ta rằng người mục tử tốt lành phải đâm rễ trong chiêm niệm. Chỉ bằng cách đó, người mục tử mới có thể đặt lên vai mình những nhu cầu của tha nhân và coi đó là nhu cầu của mình: “per pietatis viscera in se infirmitatem caeterorum transferat ” .[ 4 ] Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô nói trong bối cảnh của Thánh Phaolô, người đã được nhấc lên cao với những mầu nhiệm cao cả nhất của Thiên Chúa, và từ đó, khi hạ xuống, ngài đã có thể trở nên tất cả cho mọi người (x. 2 Cor 12:2-4; 1 Cor 9:22). Ngài cũng chỉ ra gương của ông Môisê, người đã vào lều Tạm và cũng ở lại trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa để khi ra khỏi lều Tạm ông đã có thể phục phụ dân mình. "Trong [lều Tạm] ông đã được nhấc lên cao nhờ chiêm niệm, để khi ra ngoài ông hoàn toàn dâng mình cho việc trợ giúp những ai đau khổ: intus in contemplationem rapitur, foris infirmantium negotiis urgetur. ”[ 5 ]

8. Như thế chúng ta đã đi đến một đáp giải sơ khởi, dù còn đại cương, cho hai câu hỏi nêu ra ở trên. Về căn bản, "tình yêu" là một thực tại duy nhất nhưng với nhiều chiều kích khác nhau; ở những thời điểm khác nhau, chiều kích này có thể xuất hiện rõ hơn chiều kích khác. Tuy nhiên khi hai chiều kích hoàn toàn tách biệt khỏi nhau, hệ quả là một bức hí họa của tình yêu hay ít nhất cũng là một dạng thức nghèo nàn của tình yêu. Và chúng ta cũng đã thấy một cách tổng hợp, đức tin Thánh Kinh không hề dựng nên một vũ trụ song song, hay chống lại một hiện tượng thiết yếu của con người gọi là tình yêu, nhưng trái lại đức tin chấp nhận toàn thể con người; can thiệp vào cuộc tìm kiếm tình yêu của con người hầu thanh luyện tình yêu và mở ra những chiều kích mới cho tình yêu. Tính mới mẻ của đức tin Thánh Kinh biểu lộ chủ yếu ở hai yếu tố đáng được nêu bật: hình ảnh của Thiên Chúa và hình ảnh của con người.

Sự mới mẻ của đức tin Thánh Kinh

9. Trước hết, thế giới của Thánh Kinh trình bày với chúng ta một hình ảnh mới của Thiên Chúa. Trong các nền văn hóa chung quanh, hình ảnh của Thiên Chúa và của các thần linh luôn mơ hồ và trái nghịch. Tuy nhiên, theo đà phát triển của đức tin Thánh Kinh, nội dung của kinh Shema, lời nguyện cơ bản đối với người Do Thái, đã trở nên càng ngày càng rõ ràng và hùng hồn. " Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất"(Đnl 6:4). Chỉ có một Chúa duy nhất, Đấng dựng nên trời đất, Đấng do đó là chủ tể muôn loài. Có hai sự kiện hệ trọng liên quan đến khẳng định này: tất cả các thần linh khác không phải là Chúa, và vũ trụ trong đó chúng ta sống xuất phát tự nơi Thiên Chúa và được Thiên Chúa tạo thành. Chắc chắn là ý niệm tạo dựng có thể được tìm thấy đâu đó nữa, nhưng ở đây ý niệm này trở nên tuyệt đối rõ rệt rằng không có chuyện một thần linh giữa các thần linh, nhưng chỉ có một Thiên Chúa thật duy nhất, Đấng là nguồn mạch của mọi loài thọ sinh; toàn thể thế giới này hiện hữu bởi quyền năng của Lời sáng tạo. Hệ quả là tạo vật của Ngài là điều rất thân thiết với Ngài, vì nó được an bài và "dựng" nên bởi Ngài.
 Yếu tố quan trọng thứ hai giờ đây lộ ra: Thiên Chúa này yêu thương con người. Quyền thần mà Aristotle ở đỉnh cao của triết học Hy Lạp tìm cách nắm bắt qua những suy tư thực ra là một đối tượng khiến cho mọi người khao khát và yêu mến – và như đối tượng của tình yêu, quyền thần này đảo lộn thế giới[6] – nhưng tự bên trong quyền thần này không thiếu thứ gì và không hề yêu ai: nó chỉ là đối tượng để cho người ta yêu. Ngược lại, Thiên Chúa mà dân Israel tin thờ lại yêu với một tình yêu cá vị. Tình yêu của Ngài, hơn thế nữa, là một tình yêu có chọn lọc: giữa tất cả các dân nước, Ngài đã chọn Israel và yêu dân này – nhưng Ngài làm thế với viễn ảnh chữa lành toàn thể nhân loại. Thiên Chúa yêu và tình yêu Ngài chắc chắn có thể gọi là eros nhưng tình yêu đó cũng hoàn toàn là agape. [7]

Các tiên tri, đặc biệt là tiên tri Hôsê và Êdêkien, đã mô tả xúc cảm của Thiên Chúa dành cho dân Ngài với những hình ảnh khơi gợi táo bạo. Quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Israel được mô tả với những liên tưởng về giao ước và hôn nhân; việc thờ ngẫu tượng do đó được coi là ngoại tình và mại dâm. Ở đây chúng ta thấy - như đã từng thấy - một tham chiếu đặc biệt đến các giáo phái tôn thờ sinh sản và sự lạm dụng eros của họ, nhưng cũng đồng thời thấy một mô tả về quan hệ trung tín giữa Israel và Thiên Chúa. Lịch sử quan hệ ái tình giữa Thiên Chúa và Israel, ở mức thâm sâu nhất, bao gồm trong sự kiện là Ngài đã ban cho Israel Torah (Lề Luật), qua đó mở mắt cho dân Israel thấy bản chất thật sự của con người, và chỉ cho dân Người thấy con đường dẫn đến chủ nghĩa nhân bản đích thật. Quan hệ này chứa đựng trong sự kiện là con người qua cuộc sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ tự cảm nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương, và khám phá ra những niềm vui trong sự thật và trong sự công chính – đó là niềm vui nơi Thiên Chúa mà rồi ra sẽ trở nên hạnh phúc thiết yếu của con người: "Con còn ai chốn trời xanh? Bên Ngài thế sự thật tình chẳng ham... Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa"(Tv 73 [72]:25, 28).

10. Chúng ta đã thấy rằng eros của Thiên Chúa dành cho loài người cũng hoàn toàn là agape. Điều này không chỉ vì tình yêu này được trao ban một cách rất hào phóng, nhưng không, nhưng còn vì đó là một tình yêu tha thứ.Trên tất cả, Hôsê chỉ cho chúng ta thấy rằng chiều kích agape này của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người vượt xa khía cạnh hào phóng. Israel tiếp tục "ngoại tình" và vi phạm giao ước; Thiên Chúa lẽ ra phải phán xét và trừng phạt Israel. Chính trong điểm này Thiên Chúa mạc khải với ta Thiên Chúa là Thiên Chúa, không phải con người:"Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!... Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh"(Hos 11:8-9). Tình yêu nhiệt thành của Chúa dành cho dân Người – cho nhân loại – đồng thời là một tình yêu thứ tha. Tình yêu ấy lớn lao đến độ làm Thiên Chúa quay ra đối nghịch lại với chính Ngài, tình yêu của Ngài nghịch lại với công lý của Ngài. Ở đây, người Kitô Giáo có thể thấy một tiên báo lờ mờ về mầu nhiệm Thánh Giá: tình yêu Thiên Chúa dành cho con người cao cả đến mức Ngài đã hóa thành con người để theo đuổi con người đến tận cái chết và qua đó hòa giải công lý và tình yêu.

Chiều kích triết học đáng nêu ra trong hình ảnh Thánh Kinh này, và tầm quan trọng từ quan điểm lịch sử các tôn giáo, là một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này - Logos, Đấng thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. Eros vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với agape. Chúng ta có thể thấy việc đưa sách Diễm Ca vào phạm vi Sách Thánh đã sớm được giải thích bởi ý tưởng là những bài tình ca này chung cuộc diễn tả quan hệ giữa Thiên Chúa và con người và quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Vì thế, trong cả văn chương Kitô Giáo và Do Thái Giáo, sách Diễm Ca đã trở thành nguồn mạch cho những kiến thức và cảm nhận huyền nhiệm, trở thành một diễn tả yếu tính của đức tin Thánh Kinh theo đó con người có thể thực sự tiến vào sự hiệp thông với Thiên Chúa – khát vọng nguyên thủy của con người. Nhưng sự hiệp thông này không chỉ đơn thuần là một tổng hợp, một nhúng chìm trong biển cả không tên của Thần Tính; đó là một sự hiệp nhất tạo ra tình yêu, một sự hiệp nhất trong đó cả Thiên Chúa và con người giữ nguyên chính mình nhưng lại trở nên một. Như Thánh Phaolô nói: "Ai kết hiệp với Chúa thì trở nên cùng một thần trí với Ngài" (1 Cr 6:17).

11. Tính chất mới mẻ đầu tiên của đức tin Thánh Kinh, như chúng ta thấy ở trên, bao gồm hình ảnh về Thiên Chúa. Tính chất mới mẻ thứ hai, liên quan chặt chẽ với điều này, được tìm thấy nơi hình ảnh con người. Trình thuật sáng thế trong Thánh Kinh đề cập đến sự cô đơn của Adong, con người đầu tiên, và quyết định của Thiên Chúa ban cho ông một trợ tá. Tất cả các tạo vật khác, không tạo vật nào có thể trở thành người trợ tá mà con người này cần, dù cho con người đã đặt tên cho tất cả mọi súc vật hoang dã và chim muông và qua đó biến chúng hoàn toàn trở nên một một phần đời sống của mình. Vì thế, Thiên Chúa dựng nên người nữ từ xương sườn của người nam. Giờ đây Adong tìm được người trợ tá mà ông cần: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" (St 2:23). Ở đây, ta có thể tìm thấy những ý tưởng tương tự có thể tìm thấy, chẳng hạn, trong huyền thoại được Plato nhắc đến, theo đó con người tự nguyên thủy là đóng kín, vì con người hoàn chỉnh và tự mình đầy đủ. Nhưng con người bị thần Zeus tách làm đôi để trừng phạt tội kiêu ngạo, vì thế từ nay con người ngóng trông nửa còn lại của mình, gắng toàn bộ sức mình để dành lấy nửa ấy hầu khôi phục lại sự toàn vẹn của mình. [8] Trong khi trình thuật Thánh Kinh không đề cập đến sự trừng phạt, có một ý tưởng bàng bạc rằng con người cách nào đó là khiếm khuyết, theo bản năng tìm kiếm nơi người khác phần bổ sung để con người nên trọn vẹn; có một ý tưởng theo đó chỉ trong sự hiệp thông với người khác phái con người mới có thể trở nên "hoàn chỉnh". Trình thuật Thánh Kinh từ đó kết luận với một lời tiên tri của Adong: "Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt." (St 2:24).

Có hai khía cạnh rất quan trọng của điều này. Đầu tiên, eros cách nào đó đâm rễ trong chính bản chất con người: Adong là một người tìm kiếm, người "đã bỏ mẹ và cha mình" để tìm người nữ; phải có hai người cùng nhau mới tiêu biểu được cho một nhân loại hoàn chỉnh và trở nên "cùng một xương một thịt". Khía cạnh thứ hai cũng quan trọng không kém. Từ quan điểm của lịch sử sáng thế, eros hướng dẫn con người đến với hôn nhân, đến với một ràng buộc độc nhất và dứt khoát; chỉ như thế mục đích sâu xa nhất của nó mới được nên trọn. Tương ứng với hình ảnh của một Thiên Chúa độc thần là một hôn nhân đơn hôn [một vợ một chồng]. Hôn nhân dựa trên tình yêu độc quyền và dứt khoát trở nên hình ảnh mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người và ngược lại. Đường lối yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo cho tình yêu nhân loại. Sự liên hệ gần gũi này giữa eros và hôn nhân trong Thánh Kinh trong thực tế không có một tương đương nào trong các văn chương khác.

Chúa Giêsu Kitô – hiện thân của tình yêu Thiên Chúa

12. Dù đến nay, chúng ta đề cập chủ yếu đến Cựu Ước, tuy nhiên, sự kết hiệp bổ sung sâu xa giữa hai Giao Ước như một Thánh Kinh duy nhất của đức tin Kitô đã trở nên hiển nhiên. Tính chất mới mẻ thật sự của Tân Ước không hệ tại nhiều ở những ý tưởng mới cho bằng trong chính hình ảnh của Chúa Kitô, Đấng trao ban mình và máu Ngài cho những ý tưởng đó – một chủ nghĩa hiện thực chưa từng có. Trong Cựu Ước, tính chất mới mẻ của Thánh Kinh không chỉ ở những khái niệm trừu tượng nhưng còn ở hành động không tiên liệu trước được của Thiên Chúa và trong một nghĩa nào đó là chưa từng có. Hành động của Thiên Chúa giờ đây mang lấy một hình thái gây ấn tượng mạnh hơn nữa khi trong Chúa Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa là Đấng đi tìm "những con chiên lạc", là nhân loại khổ đau và lầm lạc. Khi Chúa Giêsu nói trong các dụ ngôn của Ngài về người mục tử đi tìm chiên lạc, về người đàn bà tìm đồng tiền đánh rơi, hay về người cha gặp gỡ và ôm vào lòng đứa con hoang đàng, những lời này không chỉ đơn thuần như thế: chúng cấu thành lời giải thích cho chính Ngài và hành động của Ngài. Cái chết của Ngài trên thánh giá là tột đỉnh của việc Thiên Chúa quay ra đối nghịch lại với chính Ngài, trong đó, Ngài trao ban chính mình để nâng con người dậy và cứu rỗi con người. Đây là tình yêu ở dạng thức cao nhất. Khi chiêm niệm cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu của Chúa Kitô (x 19:37) , chúng ta có thể hiểu được điểm khởi hành của Thông Điệp này "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4:8). Chính đó là điểm để chiêm niệm chân lý này.Định nghĩa tình yêu của chúng ta cần phải bắt đầu từ đó. Trong chiêm niệm này, người Kitô hữu khám phá ra con đường theo đó cuộc sống và tình yêu của mình phải dõi bước theo.

13. Chúa Giêsu làm cho hành vi trao đi này tồn tại lâu dài qua việc thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Ngài tiên báo cái chết và sự phục sinh của Ngài bằng cách trao cho các môn đệ chính Ngài trong hình bánh và rượu, là mình và máu Ngài như manna mới ( x Ga 6:31-33). Thế giới xưa đã lờ mờ nhận ra rằng của ăn đích thực của nhân loại – cái thực sự nuôi dưỡng họ như con người – trên hết là Logos, thượng trí vĩnh hằng: chính Logos này nay thực sự là của ăn cho họ - vì tình yêu. Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào trong hành động tự cho đi của Chúa Giêsu. Hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Israel giờ đây được nhận ra trong cách thế chưa từng được nghĩ đến: hôn nhân này trước đây được hiểu là được hiện diện trước mặt Thiên Chúa, nhưng nay nó trở thành sự hiệp nhất với Thiên Chúa qua việc chia sẻ trong hồng ân tự hiến của Chúa Giêsu, chia sẻ mình và máu Ngài. "Huyền nhiệm" có tính cách bí tích này đặt cơ sở trên sự hạ mình của Thiên Chúa xuống chúng ta, hoạt động ở mức độ rất khác biệt và đưa chúng ta đến những đỉnh cao hơn bất cứ điều gì phù phép nâng mình lên của nhân loại có thể đạt đến.

14. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta cần quan tâm đến một khía cạnh khác: "huyền nhiệm" bí tích này có một tính cách xã hội, vì trong bí tích hiệp thông tôi trở nên một với Chúa, như tất cả những người hiệp thông khác. Như Thánh Phaolô nói, "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cor 10:17)Hiệp thông với Chúa Kitô cũng là hiệp thông với tất cả những ai Ngài đã hiến mình cho họ. Tôi không thể giữ Chúa Kitô chỉ cho riêng mình; tôi chỉ có thể thuộc về Ngài trong sự hiệp thông với những ai đã và sẽ trở thành của Ngài. Sự hiệp thông đưa tôi ra khỏi chính mình để hướng về Ngài, và vì thế cũng hướng về sự hiệp nhất với tất cả các Kitô hữu. Chúng ta trở nên "một thân thể", hoàn toàn được liên kết trong một sự hiện hữu duy nhất. Tình yêu của Thiên Chúa, và tình yêu tha nhân giờ đây thực sự được kết hiệp: Thiên Chúa nhập thể đưa tất cả chúng ta lại với chính Ngài. Vì thế, chúng ta hiểu được tại sao agape cũng trở nên một thuật ngữ dành cho bí tích Thánh Thể: nơi đó agape của chính Thiên Chúa đến với chúng ta bằng xương bằng thịt để tiếp tục kỳ công của Ngài trong chúng ta và qua chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta ghi nhớ trong đầu mình căn bản Kitô học và bí tích học này chúng ta mới có thể hiểu đúng được giáo huấn của Chúa Giêsu về tình yêu. Sự chuyển dịch Ngài đã thực hiện từ Lề Luật và từ các Tiên Tri đến giới răn gồm hai mặt là mến Chúa và yêu người, và việc đặt cơ sở của toàn bộ đời sống đức tin trên giáo huấn trung tâm này không chỉ đơn giản là vấn đề luân lý – một điều gì đó có thể tồn tại tách biệt và song song với đức tin nơi Chúa Kitô và sự tái hiện thực hóa cách bí tích (sacramental re-actualization) của đức tin này. Đức tin, sự thờ phượng và eros đan quyện vào nhau như một thực tại duy nhất hình thành trong cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với agape của Thiên Chúa. Ở đây sự đối kháng thông thường giữa thờ phượng và đạo đức vỡ vụn từng mảng. "Sự thờ phượng", sự hiệp thông trong bí tích Thánh Thể, tự nó bao gồm thực tại của cả tình trạng được yêu và yêu thương ngược lại. Sự hiệp thông Thánh Thể nếu không được nối tiếp bằng sự thực hành yêu thương cụ thể thì tự bên trong đã là chắp vá. Ngược lại, như chúng ta sẽ đi sâu vào chi tiết dưới đây, "lề luật" yêu thương chỉ có thể thực hiện được vì nó cao hơn là một yêu cầu. Tình yêu chỉ có thể bị "bó buộc" nếu nó đã được trao ra trước.

15. Nguyên tắc này là điểm khởi hành để hiểu những dụ ngôn lớn của Chúa Giêsu. Người nhà giàu (x Lc 16:19-31) van xin từ chốn ngục hình của mình để anh em ông được biết về những gì xảy đến cho những ai bỏ mặc người nghèo trong cùng bách. Chúa Giêsu xem lời kêu cầu này như một lời cảnh cáo để giúp chúng ta quay về chính lộ. Dụ ngôn người Samaritanô Nhân Lành (x Lc 10:25-37)đưa ra hai điều minh bạch hóa hết sức quan trọng. Cho đến lúc đó, khái niệm "anh em" được hiểu là ám chỉ đặc biệt đến những người đồng hương và những khách ngoại kiều cư trú trên đất Israel; nói cách khác, đến một cộng đoàn khép kín của một đất nước hay một dân tộc chuyên biệt. Giới hạn này giờ đây bị hủy bỏ. Bất cứ ai cần đến tôi và bất cứ ai tôi có thể giúp đều là anh em tôi. Khái niệm "anh em" giờ đây được hoàn vũ hóa, tuy thế nó vẫn giữ nguyên tính cụ thể. Dù được nới rộng ra tới toàn nhân loại, nó không bị giản lược thành một biểu thị tình yêu khái quát, trừu tượng và không đòi hỏi, nhưng là những lời mời gọi cho dấn thân thực tiễn của tôi ở đây và ngay bây giờ. Giáo Hội có nghĩa vụ diễn dịch luôn mới mẻ quan hệ này trong mối tương quan với đời sống của các tín hữu ở mọi nơi mọi lúc. Cuối cùng, chúng ta phải đặc biệt nhắc đến dụ ngôn Ngày Phán Xét Sau Cùng ( Mt 25:31-46), trong đó tình yêu trở thành tiêu chuẩn cho quyết định chung cuộc xem cuộc sống của một con người là xứng đáng hay không. Chúa Giêsu đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25:40) Mến Chúa và yêu người đã trở thành một: trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta gặp được Thiên Chúa.

Mến Chúa và yêu người

16. Sau khi đã suy tư về bản chất của tình yêu, và ý nghĩa của nó trong niềm tin Thánh Kinh, chúng ta còn hai câu hỏi liên quan đến thái độ của chính mình: chúng ta có thể yêu Chúa mà không thấy Ngài không? Và tình yêu có thể bị bắt buộc không? Đối kháng với giới răn kép của yêu thương, những câu hỏi này đưa ra một chống đối kép. Chưa ai đã từng nhìn thấy Thiên Chúa, như thế làm sao chúng ta có thể yêu Ngài? Hơn thế nữa, tình yêu không thể bị bắt buộc; nói cho cùng đó là một cảm giác hoặc là có hoặc là không, chẳng cố mà có, cũng chẳng muốn mà được. Thánh Kinh xem ra có vẻ củng cố chống đối thứ nhất khi tuyên bố rằng: "Nếu ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy." (1 Ga 4:20). Nhưng đoạn văn này không loại trừ tình yêu Thiên Chúa coi đó như là điều không thể được. Trái lại, toàn bộ bối cảnh của đoạn văn trích từ Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan cho thấy một tình yêu như thế là một đòi buộc rõ rệt. Mối liên kết không thể bị bẻ gãy giữa mến Chúa và yêu người được nhấn mạnh. Ta được liên kết thân mật với người khác đến nỗi nói rằng yêu Chúa là nói dối nếu ta đóng kín với tha nhân hay thậm chí thù ghét họ. Những lời của Thánh Gioan nên được hiểu như thế này: yêu người là con đường dẫn đến sự gặp gỡ với Chúa, và ngoảnh mặt với anh em là ngoảnh mặt đi với Chúa.

17. Đúng thế, chưa ai đã từng thấy Thiên Chúa đúng nghĩa. Nhưng tuy Thiên Chúa là vô hình đối với chúng ta; Ngài không phải là mãi mãi không thể tiếp cận. Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước như trong Thư của Thánh Gioan đã được trích dẫn ở trên (x 4:10) , và tình yêu này của Thiên Chúa đã xuất hiện giữa chúng ta. Ngài đã trở nên hữu hình đến mức Ngài "đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống" (1 Ga 4:9).Thiên Chúa đã tự hóa thành hữu hình: trong Chúa Giêsu chúng ta có thể thấy được Chúa Cha (x Ga 14:9). Thật vậy, Thiên Chúa hữu hình trong nhiều cách thế. Trong câu chuyện tình được Thánh Kinh tường thuật, Ngài đến với chúng ta, Ngài tìm cách chinh phục con tim chúng ta, đến tận cùng bữa Tiệc Ly, đến cạnh sườn bị lưỡi đòng thâu qua, đến những lần hiện ra sau Phục Sinh và đến những kỳ công cao cả qua đó, thông qua hoạt động của các thánh Tông Đồ, Ngài hướng dẫn Giáo Hội sơ khai trên những nẻo đường.Chúa đã không vắng mặt trong lịch sử tiếp theo của Giáo Hội: Ngài gặp gỡ chúng ta luôn mãi nơi những người nam nữ chiêm ngắm sự hiện diện của Ngài trong lời Ngài, trong các phép bí tích, và đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Trong Phụng Vụ của Giáo Hội, trong lời kinh của Giáo Hội, trong những cộng đoàn tín hữu sống động, chúng ta cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài và qua đó chúng ta học biết cách nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống hàng ngày. Ngài đã yêu chúng ta trước và Ngài còn tiếp tục yêu thương chúng ta; cả chúng ta, do đó, cũng có thể đáp lại với tình yêu. Thiên Chúa không đòi nơi chúng ta một cảm giác mà chúng ta không sao tạo ra nổi. Ngài yêu chúng ta, Ngài làm cho chúng ta thấy và cảm nhận được tình yêu của Ngài, và vì "Ngài đã yêu thương chúng ta trước", tình yêu có thể nở hoa như là một lời đáp trả bên trong chúng ta.

Cuộc gặp gỡ này dần hé mở ra mạc khải theo đó tình yêu không chỉ là một cảm xúc. Cảm xúc đến rồi đi. Một cảm xúc có thể là một tia sáng loé lên huy hoàng lúc đầu, nhưng nó không phải là sự viên mãn của tình yêu. Trước đó, chúng ta đã đề cập đến tiến trình thanh luyện và trưởng thành, qua đó eros trở nên viên mãn trong chính nó, trở nên tình yêu trong ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đặc trưng của tình yêu trưởng thành là nó huy động mọi tiềm năng của con người; nó lôi cuốn toàn thể con người, có thể nói như vậy. Sự tiếp xúc với những biểu thị hữu hình của tình yêu Thiên Chúa có thể đánh thức trong chúng ta một cảm giác hân hoan xuất phát từ cảm nhận mình đang được yêu. Nhưng cuộc gặp gỡ này cũng thu hút cả ý chí và trí tuệ của chúng ta. Nhìn nhận Thiên Chúa hằng sống là một con đường hướng đến tình yêu, và lời "xin vâng" của ý chí chúng ta trước thánh ý Ngài sẽ kết hiệp trí tuệ chúng ta, ý chí chúng ta và những tình cảm của chúng ta lại trong hành vi ôm trọn tất cả của tình yêu. Nhưng tiến trình này luôn luôn bất tận; tình yêu không bao giờ "hoàn tất" và hoàn toàn; suốt đời, tình yêu thay đổi và trưởng thành, và qua đó luôn trung tín với chính mình. Idem velle atque idem nolle[9] – ao ước cùng một điều và chê ghét cùng một điều - được người xưa nhìn nhận như là nội dung chân thật của tình yêu: đàng này trở thành tương tự với đàng kia, và điều đó dẫn đến một cộng đồng ý chí và tư duy. Chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người chứa đựng trong chính sự kiện là sự hiệp thông ý chí này tăng trưởng trong sự hiệp thông ý nghĩ và tình cảm, qua đó ý chí chúng ta và thánh ý Thiên Chúa càng ngày càng trùng hợp:
Thánh ý Chúa không còn là một ý chí xa lạ đối với tôi, là điều gì đó áp đặt trên tôi từ bên ngoài bởi các giới răn, nhưng giờ đây đó là ý của tôi, với nhận thức rằng Thiên Chúa hiện diện trong tôi còn sâu xa hơn chính cái tôi của mình. [10] Từ đó sự từ bỏ mình để hướng đến Thiên Chúa gia tăng và Thiên Chúa trở thành niềm vui của chúng ta (x. Tv 73 [72]:23-28) .

18. Yêu tha nhân vì thế được chứng minh là có thể trong cách thế mà Thánh Kinh và Chúa Giêsu đã chỉ ra. Nó được chứa đựng trong chính sự kiện này là trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa, tôi yêu cả những người tôi không thích hay thậm chí không biết người ấy. Điều này chỉ có thể xảy ra trên cơ sở của một cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ đã trở nên một sự hiệp thông ý chí, một cuộc gặp gỡ ảnh hưởng đến cả cảm xúc của tôi. Từ đó, tôi nhìn tha nhân này không chỉ với đôi mắt và cảm xúc của mình nhưng từ quan điểm của Chúa Giêsu Kitô. Bạn Ngài là bạn tôi. Vượt qua dáng vẻ bề ngoài, tôi cảm nhận nơi tha nhân một ao ước bên trong muốn thấy một dấu chỉ của tình yêu, của quan tâm. Tôi có thể trao cho họ dấu chỉ này không chỉ thông qua các tổ chức được hình thành cho những nhu cầu như thế, những tổ chức được chấp nhận có lẽ như một nhu cầu chính trị. Khi nhìn với đôi mắt của Chúa Kitô, tôi có thể trao cho tha nhân nhiều hơn những nhu cầu bề ngoài của họ; tôi có thể trao cho họ ánh mắt yêu thương mà họ thèm khát. Ở đây chúng ta thấy sự tương tác cần thiết giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân mà Thư Thánh Gioan đã đề cập với một sự nhấn mạnh như vậy. Nếu tôi chẳng có chút liên hệ nào với Thiên Chúa trong đời tôi, tôi không thể thấy nơi tha nhân những gì nhiều hơn là họ, và tôi không thể thấy nơi họ hình bóng của Thiên Chúa. Nhưng nếu trong cuộc đời, tôi hoàn toàn chẳng bao giờ chú ý đến ai, tình nghĩa với Chúa sẽ trở nên khô cằn nếu nó xuất phát thuần tuý từ ước muốn được trở nên "sốt sắng" và muốn thi hành "bổn phận tôn giáo" của mình. Tình nghĩa ấy chỉ có thể trở thành "đúng cách", chứ không hề có tình yêu trong đó. Chỉ sự sẵn sàng gặp gỡ người anh em tôi và chứng tỏ cho người ấy thấy tình yêu của mình, mới làm cho tôi cũng nhạy cảm với Thiên Chúa. Chỉ khi tôi phục vụ người anh em tôi, mắt tôi mới mở ra cho tôi thấy những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi và Ngài yêu tôi biết dường nào. Các thánh – hãy xem thí dụ Chân Phước Têrêxa thành Calcutta – thường xuyên canh tân khả năng yêu thương tha nhân của họ từ sự gặp gỡ với Chúa Thánh Thể, và ngược lại sự gặp gỡ này đạt được hiện thực và chiều sâu của nó trong sự phục vụ tha nhân. Tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu tha nhân vì thế là không thể tách rời, chúng hình thành một giới răn duy nhất. Nhưng cả hai sống từ tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Nó không còn là vấn đề một "lệnh truyền" áp đặt từ bên ngoài và đòi hỏi một điều bất khả thi nữa, nhưng là một kinh nghiệm yêu đương, tự do cho đi từ bên trong, một tình yêu tự bản chất cần phải được chia sẻ với những người khác. Tình yêu triển nở qua tình yêu. Tình yêu là "thần thánh" vì nó đến từ Thiên Chúa và kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa; qua tiến trình hiệp nhất này tình yêu biến chúng ta thành một "chúng tôi", vượt qua sự chia rẽ của chúng ta và làm cho chúng ta nên một, cho đến khi Thiên Chúa là "tất cả trong mọi sự" (1 Cor 15:28).

Chú Thích:

[1] Xem Jenseits von Gut und Böse, IV, 168.

[2] X, 69.

[3] Xem R. Descartes, Œuvres, ed. V. Cousin, vol. 12, Paris 1824, pp. 95ff.

[4] II, 5: SCh 381, 196.

[5] Ibid., 198.

[6] Xem Metaphysics, XII, 7.

[7] Xem Ps.-Dionysius the Areopagite, who in his treatise The Divine Names, IV, 12-14: PG 3, 709-713 calls God both eros and agape.

[8] Plato, Symposium, XIV-XV, 189c-192d.

[9] Sallust, De coniuratione Catilinae, XX, 4.

[10] Xem Saint Augustine, Confessions, III, 6, 11: CCL 27, 32.


(J. B Đặng Minh An dịch)
BÁC ÁI HỘI THÁNH, MỘT “CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG”

THỂ HIỆN TÌNH YÊU


Hoạt động bác ái của Hội Thánh như là một cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi

19. Thánh Augustinô đã viết: “Nếu bạn thấy tình bác ái thì bạn nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi”. Trong những giòng suy tư trên, chúng ta đã hướng về Đấng bị đâm thâu (x. Ga 19,37; Dcr 12,10), để nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa Cha, Đấng do tình yêu thôi thúc (x. Ga 3,16), đã sai Con yêu dấu duy nhất của mình đi vào thế giới để cứu chuộc con người. Khi chết trên Thập giá - như thánh Gioan kể lại - Đức Giêsu đã “trao Thần Khí” (x. Ga 19,30), báo trước quà tặng là Chúa Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi phục sinh (Ga 20,22). Như thế đã ứng nghiệm lời hứa về “những dòng sông mang nước hằng sống” sẽ tuôn chảy từ tâm hồn các tín hữu, qua việc đổ tràn của Chúa Thánh Thần (Ga 7,33-38). Quả thế, Chúa Thánh Thần là nguồn sức mạnh bên trong làm hoà nhập trái tim của họ với trái tim của Đức Giêsu và thúc đẩy họ yêu thương anh em mình như Đức Giêsu đã yêu thương họ, khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1; 15,13) và nhất là, khi Người trao ban mạng sống Người cho chúng ta (Ga 13,1; 15,13).

Thánh Thần cũng là nguồn sinh lực làm biến đổi con tim của cộng đoàn hội thánh, để cộng đoàn trở thành chứng nhân cho thế giới về tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình duy nhất trong Con của Người. Toàn bộ hoạt động của Hội Thánh là biểu lộ của một tình yêu muốn tìm kiếm sự thiện hảo toàn vẹn cho con người: nó tìm cách loan báo Tin mừng qua Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, một công việc thường rất anh hùng khi được thực hiện trong lịch sử; và nó tìm cách nâng cao con người trong các lãnh vực đa dạng của cuộc sống và hoạt động nhân bản. Vì thế, yêu thương là công việc phục vụ mà Hội Thánh thực hiện để luôn đáp ứng trước những nỗi đau và nhu cầu của con người, kể cả các nhu cầu vật chất. Việc phục vụ của đức ái, đó chính là khía cạnh mà tôi muốn tập trung trong phần thứ hai của Thông điệp.

Bác ái như một nhiệm vụ của Hội Thánh

20. Yêu thương người lân cận, bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, trước hết và trên hết là một nhiệm vụ của mỗi cá nhân người tín hữu, nhưng nó cũng còn là nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn Hội thánh ở mọi cấp độ: từ cộng đoàn địa phương đến Hội thánh địa phương và Hội thánh hoàn vũ trong toàn thể của nó. Hội thánh, trong tư cách một cộng đoàn, phải thực hành tình yêu. Vì thế, tình yêu cũng cần được tổ chức nếu nó muốn trở thành một công việc phục vụ có thứ tự đối với cộng đoàn. Ý thức về nhiệm vụ này đã có một tính chất thiết yếu trong Hội thánh ngay từ buổi đầu: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2, 44-45). Bằng những lời này, thánh Luca đưa ra một thứ định nghĩa về Hội thánh, với những yếu tố cấu thành là sự trung thành đối với “lời giảng dạy của các thánh tông đồ”, “hiệp thông” (koinonia), “bẻ bánh”, và “cầu nguyện” (Cv 2, 42). Yếu tố “hiệp thông” không được xác định rõ ngay từ đầu, nhưng xuất hiện cách cụ thể trong những câu được trích dẫn trên: nó hệ tại ở sự kiện các tín hữu để mọi sự làm của chung và giữa họ, không còn có sự phân biệt giữa người giàu và người nghèo (x. Cv 4,32-37). Hình thức triệt để này của sự hiệp thông vật chất thực tế không còn tồn tại với sự tăng trưởng của Hội Thánh. Nhưng điểm cốt yếu của nó còn lưu lại: trong cộng đoàn các tín hữu, không thể tồn tại một hình thức nghèo đói là từ chối với ai điều gì cần thiết để có một cuộc sống xứng đáng.

21. Một bước quyết định trong việc tìm kiếm đầy khó khăn những phương thế để thực hiện nguyên tắc nền tảng này của Giáo hội được thấy rõ qua việc chọn lựa bẩy người, vốn là khởi điểm của chức vụ phó tế (x. Cv 6,5-6). Quả vậy, trong Hội Thánh tiên khởi, trong việc phân phát lương thực hằng ngày cho các bà goá, có một sự chênh lệch nảy sinh giữa những người nói tiếng Do Thái và những người nói tiếng Hy Lạp. Các Tông đồ, vì đã được giao phó trước tiên “việc cầu nguyện” (Bí tích Thánh Thể và phụng vụ) và “việc phục vụ Lời”, cảm thấy quá tải với “việc phục vụ bàn ăn”, vì thế các ngài quyết định dành cho mình nhiệm vụ chính yếu và chỉ định một nhóm bẩy người làm công việc kia, cũng cần thiết trong Hội Thánh. Tuy nhiên, nhóm này không chỉ chu toàn một công việc thuần túy kỹ thuật là phân phát: họ là những con người “đầy Thần Khí và khôn ngoan” (x. Cv 6,1-6). Điều đó có nghĩa là công việc phục vụ xã hội mà họ phải đảm nhận thì thật cụ thể, tuy nhiên đồng thời đó cũng là một việc phục vụ thiêng liêng; đối với họ đó quả là một việc phục vụ thiêng liêng đích thực, thực hiện một nhiệm vụ cốt yếu của Hội Thánh, đó là tình yêu đối với người lân cận được tổ chức cho có trật tự. Với sự hình thành nhóm bẩy này, “diaconia”— thừa tác vụ bác ái được thực thi một cách cộng đồng và trật tự—trở nên thành phần trong cơ cấu nền tảng của Hội Thánh.

22. Trải qua năm tháng, với sự bành trướng dần dần của Hội Thánh, việc thực hành đức bác ái được thiết lập như một hoạt động cốt yếu của Hội Thánh, cùng với việc ban phát các bí tích và loan báo Lời: tình yêu đối với các quả phụ và kẻ mồ côi, người bị tù đày và người bệnh, và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thì cũng thiết yếu đối với Hội Thánh như thừa tác vụ các bí tích và việc rao giảng Tin mừng. Hội Thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là trong việc ban các bí tích và Lời. Một vài quy chiếu cũng đủ chứng tỏ điều này. Thánh Giútinô tử đạo († c. 155) khi nói về cuộc cử hành ngày Chúa Nhật của các kitô hữu, cũng đã đề cập đến hoạt động bác ái của họ, vì nó gắn liền với Bí tích Thánh Thể. Những người khá giả đã dâng cúng theo khả năng của họ, mỗi người tùy theo ý nguyện của họ; Giám mục sử dụng những của này để trợ giúp các trẻ mồ côi, người goá bụa, người bệnh và những người vì những lý do khác đang túng quẫn, chẳng hạn những người bị tù đày và những người ngoại kiều. [12] Đại văn sĩ kitô giáo Tertullian († sau 220) kể lại làm sao những người ngoại đã bị đánh động khi thấy người kitô hữu quan tâm đến những nhu cầu dưới mọi hình thức.[13] Và khi thánh Ignatiô thành Antiôkia († c. 117) mô tả Giáo hội Rôma “đứng đầu trong việc bác ái (agape)”,[14] chúng ta có thể nghĩ rằng với định nghĩa này, ngài cũng muốn diễn tả một cách nào đó hoạt động bác ái cụ thể.

23. Ở đây có lẽ hữu ích khi đề cập đến những cơ cấu pháp lý tiên khởi liên quan đến việc phục vụ bác ái trong Hội Thánh. Vào khoảng giữa thế kỷ IV, chúng ta thấy sự phát triển của “diaconia” tại Ai Cập: đó là cơ chế trong mỗi đan viện, chịu trách nhiệm về các hoạt động cứu tế, nói cách khác, việc phục vụ bác ái. Suốt sáu thế kỷ cơ chế này đã phát triển thành một tổ chức có đầy đủ tư cách pháp lý, mà chính quyền dân sự đã giao phó một phần thóc lúa để phân phát cho dân chúng. Tại Ai Cập, không chỉ mỗi đan viện, nhưng mỗi giáo phận cuối cùng đã có diaconia riêng; cơ chế này đã phát triển cả tại Đông phương lẫn Tây phương. Đức Giáo hoàng Grêgôriô Cả († 604) đã đề cập đến diaconia của thành Napôli; trong khi tại Rôma, các diaconia được các tài liệu ám chỉ từ thế kỷ VII và VIII. Nhưng hoạt động cứu tế cho người nghèo và người đau khổ vốn đã là một thành phần thiết yếu của Hội Thánh tại Rôma ngay từ lúc đầu, theo những nguyên tắc của đời sống kitô giáo được trình bày trong sách Công vụ các Tông đồ. Hoạt động ấy tìm thấy một sự diễn tả sống động trong trường hợp của phó tế Lôrensô († 258). Bài tường thuật cảm động về việc tử đạo của thánh Lôrensô đã được biết đến nhờ thánh Ambrosiô († 397) và cung cấp một bức chân dung xác thực về vị thánh. Sau khi Đức Giáo hoàng và các bạn phó tế bị bắt, Lôrensô, vì là người chịu trách nhiệm chăm sóc các người nghèo tại Rôma, đã được cho một thời gian để gom góp các của cải châu báu của Giáo hội và trao nộp cho chính quyền. Ngài đã phân phát tiền của có trong tay cho người nghèo và sau đó trình diện với chính quyền các người nghèo như là kho báu đích thực của Giáo hội.[15] Dù những chi tiết này đáng tin về phương diện lịch sử đến mức độ nào đi nữa, thánh Lôrensô luôn hiện diện trong ký ức của Hội Thánh như một nhân vật tiêu biểu về lòng bác ái của Hội Thánh.

24. Đề cập đến Hoàng đế Giulianô Kẻ Bội giáo († 363) cũng có thể minh chứng Hội Thánh tiên khởi đã xem việc thực hành bác ái có tổ chức thiết yếu như thế nào. Khi lên sáu tuổi, Giulianô đã chứng kiến người cha, các anh em và những thành viên khác của gia đình mình bị đội bảo vệ hoàng cung giết hại; đúng hay sai thì không biết, ông đã gán hành vi bạo hành này cho Hoàng đế Constantinô, người tự nhận là một kitô hữu trổi trang. Vì thế, đức tin kitô giáo dứt khoát đã bị mất uy tín dưới con mắt của ông. Khi trở thành hoàng đế, Giulianô quyết định tái lập ngoại giáo, tôn giáo của đế quốc Rôma cũ, nhưng đồng thời canh tân lại, nhằm làm cho nó trở thành thực sự sức mạnh hấp dẫn của đế quốc. Trong kế hoạch này ông chịu ảnh hưởng rất nhiều từ kitô giáo. Ông đã thiết lập một hàng giáo phẩm gồm các Đại tư tế và các tư tế là những người phải cổ võ cho tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận. Trong một lá thư,[16] ông viết rằng khía cạnh duy nhất của kitô giáo đã đánh động ông là hoạt động bác ái của Hội Thánh. Vì thế, ông xem điều đó là thiết yếu đối với tôn giáo mới đến nỗi bên cạnh hệ thống bác ái của Hội Thánh, ông đã thiết lập một hoạt động tương tự cho tôn giáo của ông. Theo ông, đó chính là lý do mà những người “Galilê” được quần chúng yêu thích. Họ cần phải được noi gương và bị vượt qua. Như thế, Hoàng đế đã khẳng định rằng bác ái là một điểm đặc trưng quyết định của cộng đoàn kitô hữu, của Hội Thánh.

25. Đến đây, hai sự kiện cốt yếu đã nảy sinh từ suy tư của chúng ta:

a) Bản tính sâu xa nhất của Hội Thánh được diễn tả qua ba nhiệm vụ: loan báo lời của Thiên Chúa (kerygma-martyria), cử hành các bí tích (leitourgia), và thi hành tác vụ bác ái (diakonia). Những nhiệm vụ này bao hàm lẫn nhau và không thể tách rời. Đối với Hội Thánh, bác ái không phải là một thứ hoạt động trợ giúp xã hội mà ta cũng có thể để lại cho người khác làm, nhưng thuộc về bản tính của Hội Thánh, một lối diễn tả không thể thiếu của bản chất Hội Thánh.[17]

b) Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa trong trần gian. Trong gia đình này không ai phải chịu đau khổ vì thiếu cái cần thiết của sự sống. Đồng thời caritas - agape trải rộng vượt qua biên giới của Hội Thánh. Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu vẫn là một chuẩn mực đòi chúng ta tỏ bày tình yêu phổ quát đối với người thiếu thốn mà chúng ta “tình cờ” gặp gỡ (x. Lc 10,31), dù họ là ai đi chăng nữa. Không hề giảm giá trị của giới luật này về tình yêu phổ quát, Hội Thánh cũng có một trách nhiệm đặc biệt: trong gia đình Hội Thánh không ai phải chịu đau khổ vì thiếu thốn. Giáo huấn của Thư gởi tín hữu Galát thật mạnh mẽ: “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (6,10).

Công bằng và Bác ái

26. Kể từ thế kỷ XIX, đã nổi lên sự chống đối hoạt động bác ái của Hội Thánh, sự chống đối này sau đã phát triển với sự nhấn mạnh đặc biệt của thuyết Mácxít: người ta nói rằng người nghèo không cần đến bác ái nhưng cần công bằng. Những công việc bác ái—bố thí—quả là một cách thức để người giàu lẩn tránh bổn phận hành động theo công bằng và một phương thế để xoa dịu lương tâm, trong khi vẫn củng cố địa vị của họ và tước đi quyền lợi của kẻ nghèo. Thay vì góp phần vào việc bảo vệ nguyên trạng (status quo) qua những công việc bác ái cá nhân, chúng ta cần xây dựng một trật tự xã hội công bằng trong đó tất cả mọi người lãnh phần của mình trong số những của cải trần gian và không còn lệ thuộc vào bác ái nữa. Phải thừa nhận là có một vài chân lý trong luận cứ này, nhưng cũng có rất nhiều điều sai lầm. Quả thật là việc theo đuổi công bằng phải là một quy tắc nền tảng của Quốc gia và mục tiêu của một trật tự xã hội công bằng là bảo đảm cho mỗi người, theo nguyên tắc phụ đới, có được phần của mình trong số của cải của cộng đoàn. Điều này luôn được giáo huấn kitô giáo về Quốc gia và giáo huấn xã hội của Hội Thánh nhấn mạnh. Xét theo lịch sử, vấn đề tổ chức công bằng tài sản chung đã mang lại một chiều kích mới cùng với việc kỹ nghệ hoá của xã hội vào thế kỷ XIX. Sự xuất hiện của kỹ nghệ tân tiến đã làm cho các cơ cấu của xã hội cũ bị sụp đổ, đang khi sự lớn mạnh của một giao cấp công nhân được trả lương gây ra sự thay đổi triệt để trong cấu trúc xã hội. Mối tương quan giữa tiền vốn và lao động giờ đây trở thành một vấn đề quyết định—một vấn đề trong hình thức ấy cho tới nay không hề được biết đến. Tiền vốn và các phương tiện sản xuất giờ đây là những nguồn sức mạnh mới mà một khi được tập trung trong tay của một số ít người, đã dẫn đến việc hủy bỏ các quyền lợi của giai cấp lao động, điều ấy cần phải chống lại.

27. Cần phải thừa nhận rằng sự lãnh đạo của Hội Thánh đã chậm trễ trong việc nhận thức rằng vấn đề tổ chức công bằng cơ cấu của xã hội cần phải được tiếp cận theo một cách thức mới mẻ. Đã có những vị đi tiên phong như Giám mục Ketteler ở Mainz († 1877), và đáp lại những nhu cầu cụ thể, đã nảy sinh những nhóm, hiệp hội, phong trào, liên hiệp và đặc biệt, những dòng tu mới được thành lập trong thế kỷ XIX để chống lại sự nghèo đói, các tệ nạn và tình trạng bất cập trong việc giáo dục. Vào năm 1891, quyền giáo huấn của giáo hoàng đã can thiệp qua Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII. Tiếp theo là Thông điệp Quadragesimo Anno của Đức Piô XI năm 1931. Vào năm 1961 Chân phước Gioan XXIII ban hành Thông điệp Mater et Magistra, trong khi đó Đức Phaolô VI, trong Thông điệp Populorum Progressio (1967) và Tông thư Octogesima Adveniens (1971), đề cập cách mạnh mẽ đến vấn đề xã hội, lúc ấy đã trở nên đặc biệt nóng bỏng tại Châu Mỹ La Tinh. Vị Tiền nhiệm vĩ đại của tôi, Đức Gioan-Phaolô II đã để lại cho chúng ta một bộ ba Thông điệp xã hội: Laborem Exercens (1981), Sollicitudo Rei Socialis (1987) và cuối cùng Centesimus Annus (1991). Đối diện với những hoàn cảnh và những vấn đề mới, giáo huấn xã hội của Công giáo đã phát triển dần dần, và giờ đây đã có một trình bày dễ hiểu trong Cuốn Tóm lược giáo huấn xã hội của Hội Thánh do Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình xuất bản năm 2004. Thuyết Mácxít đã xem cách mạng thế giới và các biện pháp sơ bộ như là thuốc chữa kỳ diệu cho vấn đề xã hội: cách mạng và tập thể hoá các phương tiện sản xuất đến theo sau, như đã được khẳng định, sẽ lập tức biến đổi sự việc cho tốt hơn. Ao tưởng này đã tan biến. Trong hoàn cảnh phức tạp của ngày hôm nay, cũng vì sự tăng trưởng của một kinh tế toàn cầu hoá, giáo huấn xã hội của Hội Thánh đã trở nên một quy chiếu nền tảng, khi đề nghị những định hướng có giá trị vượt quá ranh giới của Hội Thánh: đối diện với sự phát triển liên tục, những nguyên tắc chỉ đạo này cần được đề cập đến trong bối cảnh đối thoại với tất cả những ai thật sự quan tâm đến nhân loại và thế giới chúng ta đang sống.

28. Để xác định chính xác hơn mối tương quan giữa việc dấn thân cần thiết cho công bằng và thừa tác vụ bác ái, hai hoàn cảnh nền tảng cần được xem xét:

a) Tổ chức đúng đắn cho xã hội và Quốc gia là một trách nhiệm cốt yếu của chính trị. Như thánh Augustinô đã từng nói, một Quốc gia không được cai trị theo công bằng chỉ có thể là một bầy trộm cướp: “Remota itaque iustitia quid sunt regna nisi magna latrocinia?”[18] Sự phân biệt giữa cái gì thuộc về Xêda và cái gì thuộc về Thiên Chúa (x. Mt 22,21) là nền tảng đối với kitô giáo, nói cách khác, sự phân biệt giữa Hội Thánh và Quốc gia, hoặc, như Công đồng Vatican II diễn đạt, sự độc lập của lãnh vực trần thế.[19] Chính quyền không thể áp lực trên tôn giáo, tuy nhiên nó phải bảo đảm quyền tự do tôn giáo và sự hoà hợp giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Về phần mình, Hội Thánh, như một diễn tả về phương diện xã hội của đức tin kitô giáo, có một sự độc lập riêng và được tổ chức trên nền tảng của đức tin như một cộng đoàn mà Chính quyền phải nhìn nhận. Hai lãnh vực phân biệt lẫn nhau, tuy vậy luôn có quan hệ lẫn nhau.

Công bằng vừa là mục tiêu và tiêu chuẩn nội tại của mọi quyền lực chính trị. Chính trị còn hơn là một cơ chế để xác định luật lệ cho đời sống công cộng: nguồn gốc và mục đích của nó được tìm thấy trong công bằng, và nó thuộc về lãnh vực đạo đức. Chính quyền không thể không đối diện với câu hỏi: làm thế nào để công bằng có thể được thực hiện nơi đây và lúc này. Nhưng câu hỏi đó bao hàm một câu hỏi triệt để hơn nữa: công bằng là gì? Đây là một vấn đề liên quan đến lý trí thực hành; nhưng để có thể được sử dụng cách đúng đắn, lý trí cần phải trải qua sự thanh luyện thường xuyên, bởi vì lý trí không bao giờ có thể được hoàn toàn giải thoát khỏi nguy cơ của một thứ mù quáng về phương diện đạo đức, gây ra bởi tác dụng chói chang của quyền lực và lợi ích.

Tại điểm này, chính trị và đức tin gặp nhau. Đức tin do bởi bản tính riêng là một sự gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống—một cuộc gặp gỡ mở ra những chân trời mới vượt khỏi lãnh vực của lý trí. Nhưng đồng thời nó là một sức mạnh có sức thanh luyện chính lý trí. Khởi từ viễn ảnh của Thiên Chúa, đức tin giải thoát lý trí khỏi sự mù quáng và vì thế giúp lý trí trở nên hoàn thiện hơn. Đức tin giúp lý trí chu toàn công việc cách hiệu quả hơn và thấy mục tiêu riêng rõ hơn. Giáo thuyết xã hội của Công giáo đặt mình vào chỗ ấy: nó không nhắm đem lại cho Hội Thánh quyền lực trên Chính quyền. Nó càng lại không muốn áp đặt trên những người không chia sẻ cùng một đức tin lối suy nghĩ và cách hành động riêng của mình. Nó chỉ muốn giúp thanh luyện lý trí và góp phần vào sự hiểu biết và đạt tới điều gì là công bình, nơi này và lúc này.

Giáo huấn xã hội của Hội Thánh biện luận trên nền tảng của lý trí và luật tự nhiên, nghĩa là, trên nền tảng của cái gì tương hợp với bản tính của nhân loại. Hội Thánh nhìn nhận rằng không phải trách nhiệm của mình là làm cho giáo huấn này chiếm ưu thế trong lãnh vực chính trị. Đúng hơn, Hội Thánh muốn giúp đào tạo lương tâm trong lãnh vực chính trị và kích thích sự hiểu biết rõ ràng hơn những đòi hỏi đích thực của sự công bằng cũng như sự sẵn sàng lớn hơn để hành động cho phù hợp, cho dù nó có thể gây nên xung đột với những hoàn cảnh của lợi ích riêng tư. Xây dựng một xã hội công bằng và trật tự dân sự, nơi ấy mỗi người lãnh nhận điều thuộc về họ, là một nhiệm vụ cốt yếu mà mọi thế hệ phải luôn mãi quan tâm. Vì là một nhiệm vụ chính trị, nó không thể là trách nhiệm trực tiếp của Hội Thánh. Tuy nhiên, bởi vì đây cũng là một trách nhiệm quan trọng nhất của nhân loại, Hội Thánh buộc lòng phải trao tặng một sự đóng góp riêng, qua việc thanh tẩy lý trí và qua việc huấn luyện đạo đức, để hiểu biết và chu toàn những đòi hỏi của công bằng trong lãnh vực chính trị.

Hội Thánh không thể và không phải gánh lấy cho mình cuộc chiến chính trị để đem lại một xã hội công bằng nhất. Hội Thánh không thể và không phải thay thế Chính quyền. Tuy nhiên đồng thời Hội Thánh không thể và không phải ở bên lề trong cuộc đấu tranh cho công bằng. Hội Thánh cần đóng vai trò của mình qua việc biện luận thuần lý và phải thức tỉnh năng lực thiêng liêng mà nếu thiếu, công bằng vốn luôn đòi hỏi sự hy sinh, sẽ không thắng thế và tăng trưởng. Một xã hội công bằng phải là thành quả của chính trị, chứ không phải của Hội Thánh. Tuy nhiên cổ võ cho công bằng qua những nỗ lực nhằm đem lại sự cởi mở của tâm trí và ước muốn theo những đòi hỏi của ích chung, là điều gì can hệ đến Hội Thánh cách sâu xa.

b) Tình yêu—caritas—sẽ luôn cần thiết, dù trong một xã hội công bằng nhất. Không hề có một tổ chức Quốc gia đúng đắn đến độ có thể xem công việc phục vụ của tình yêu là thừa thãi. Ai muốn loại trừ tình yêu thì cũng đang chuẩn bị loại trừ con người. Sẽ luôn có những đau khổ đang kêu cầu sự an ủi và giúp đỡ. Sẽ luôn có sự cô đơn. Sẽ luôn có những hoàn cảnh thiếu thốn vật chất nơi mà sự giúp đỡ dưới hình thức của tình yêu cụ thể đối với tha nhân là cần thiết. Quốc gia muốn cung cấp mọi sự, muốn thâu tóm mọi sự, cuối cùng sẽ trở nên một bộ máy quan liêu không thể bảo đảm cái cốt yếu mà con người đang đau khổ—mọi con người—cần đến: nghĩa là, sự quan tâm của một cá nhân biết yêu thương. Chúng ta không cần một Chính quyền điều phối và kiểm soát mọi sự, nhưng một Chính quyền, tuân theo nguyên tắc phụ đới, hiểu biết và nâng đỡ cách quảng đại những sáng kiến nảy sinh từ các lực lượng xã hội khác nhau và phối hợp cách bộc phát và gần gũi với những ai đang thiếu thốn. Hội Thánh là một trong những lực lượng sống động ấy: Hội Thánh sống động với tình yêu mà Thần Khí Đức Kitô nhóm lên. Tình yêu ấy không chỉ ban tặng cho con người sự trợ giúp vật chất, nhưng còn là sự tĩnh dưỡng và chăm sóc cho linh hồn, vốn là những điều thường còn cần thiết hơn những trợ giúp vật chất. Cuối cùng, luận điệu cho rằng những cơ cấu xã hội công bằng sẽ làm cho những công việc bác ái trở nên thừa thãi che dấu một quan niệm duy vật về con người: khái niệm sai lầm là con người có thể sống chỉ “bằng cơm bánh” (Mt 4,4; x. Dt 8,3)—một xác tín làm hạ giá con người và cuối cùng coi thường tất cả những gì là nhân tính.

29. Giờ đây chúng ta có thể xác định chính xác hơn, trong đời sống của Hội Thánh, mối tương quan giữa sự dấn thân tổ chức Quốc gia và xã hội cho công bằng một mặt, và tổ chức hoạt động bác ái mặt khác. Chúng ta đã thấy rằng việc hình thành các cơ cấu công bình không trực tiếp là nhiệm vụ của Hội Thánh, nhưng thuộc lãnh vực chính trị, lãnh vực sử dụng lý trí cách độc lập. Hội Thánh có một trách nhiệm gián tiếp nơi đây, trong sự đóng góp vào việc thanh tẩy lý trí và thức tỉnh những sức mạnh luân lý mà nếu không có thì các cơ cấu công bình không được thiết lập và có hiệu quả lâu dài.

Mặt khác, nhiệm vụ hành động cho một trật tự công bình của xã hội thuộc về người tín hữu giáo dân. Là công dân của một Quốc gia, họ được kêu gọi tham gia trong tư cách cá nhân vào đời sống công cộng. Vì thế họ không thể từ chối tham gia vào “những hoạt động đa dạng về kinh tế, xã hội, luật pháp, hành chánh, văn hóa, có mục đích cổ võ công ích một cách có tổ chức và qua các định chế.” [21] Vì thế sứ mạng của người kitô hữu giáo dân là định hình đời sống xã hội cách đúng đắn, bằng cách tôn trọng sự độc lập chính đáng của nó và cộng tác với các công dân khác, tùy theo khả năng của mỗi người và chu toàn trách nhiệm riêng của mình.[22] Dù những diễn tả riêng của đức ái Hội Thánh không bao giờ có thể bị lẫn lộn với hoạt động của Chính quyền, vẫn đúng là đức ái phải linh hoạt toàn thể đời sống của người kitô hữu giáo dân và do đó hoạt động chính trị của họ nữa, được sống như là “đức ái xã hội”.[23]

Mặt khác, các tổ chức bác ái của Hội Thánh làm thành opus proprium (công việc riêng), một nhiệm vụ phù hợp với mình, trong đó Hội Thánh không cộng tác cách bên lề, nhưng hành động như một chủ thể với trách nhiệm trực tiếp, khi làm điều phù hợp với bản tính của mình. Hội Thánh không bao giờ có thể được miễn trừ khỏi việc thực thi bác ái như một hoạt động có tổ chức của các tín hữu, và mặt khác, sẽ không có một hoàn cảnh nào mà bác ái của mỗi cá nhân kitô hữu là không cần thiết, bởi vì ngoài sự công bằng, con người cần đến, và sẽ luôn cần đến tình yêu.

Nhiều cơ cấu khác nhau của công việc bác ái trong bối cảnh xã hội của ngày hôm nay

30. Trước khi thử đưa ra một mô tả cụ thể về hoạt động phục vụ con người của Hội Thánh, giờ đây tôi muốn xem hoàn cảnh tổng quát của cuộc chiến cho công bằng và tình yêu trên thế giới ngày hôm nay.

a) Ngày hôm nay các phương tiện truyền thông đã làm cho hành tinh của chúng ta trở thành nhỏ hơn, bằng cách nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc và văn hoá khác nhau. “Sự sống chung” này đôi khi làm nảy sinh sự hiểu lầm và căng thẳng, tuy nhiên khả năng biết hầu như tức khắc nhu cầu của kẻ khác thách thức chúng ta chia sẻ hoàn cảnh và khó khăn của họ. Dầu có những tiến bộ lớn lao về mặt khoa học và kỹ thuật, mỗi ngày chúng ta thấy biết bao đau khổ trên thế giới do bởi nhiều thứ nghèo khó khác nhau, cả về vật chất lẫn tinh thần. Thời đại chúng ta kêu gọi một sự sẵn sàng mới mẻ để trợ giúp những người lân cận đang thiếu thốn. Công đồng Vatican II đã nói rất rõ về điểm này: “Thời nay, nhờ những phương tiện truyền thông tốt hơn, khoảng cách giữa con người không còn nữa, những hoạt động bác ái có thể và phải bao gồm mọi người và mọi nhu cầu.”[24]

Mặt khác—và đó cũng là một khía cạnh thách thức và đồng thời tích cực của tiến trình toàn cầu hoá—giờ đây chúng ta có được trong tầm tay nhiều phương tiện để đem lại sự trợ giúp nhân đạo cho anh chị em chúng ta đang thiếu thốn, đặc biệt là các hệ thống hiện đại để phân phối lương thực và quần áo, cung cấp nhà cửa và chăm sóc. Mối quan tâm đối với những người lân cận của chúng ta vượt qua ranh giới của cộng đồng quốc gia và dần dần mở rộng chân trời ra toàn thể thế giới. Công đồng Vatican II đã nhận xét cách đúng đắn rằng “trong các dấu chỉ của thời đại chúng ta, phải đặc biệt chú ý tới ý thức ngày càng gia tăng và không thể tránh được về tình liên đới giữa các dân tộc.”[25] Các cơ quan của quốc gia và các hiệp hội nhân đạo hành động để cổ võ điều này, nhờ tiền trợ cấp hay giảm thuế, hoặc cung cấp những tài nguyên đáng kể cho người khác. Như thế sự liên đới được xã hội dân sự tỏ bày vượt quá cách đầy ý nghĩa sự liên đới của các cá nhân.

b) Hoàn cảnh này đã dẫn đến sự khai sinh và tăng trưởng của nhiều hình thức cộng tác giữa các Quốc gia và các cơ quan của Hội Thánh, điều này đã mang lại nhiều kết quả. Các cơ quan của Hội Thánh, với hoạt động trong sáng và trung thành với nhiệm vụ làm chứng cho tình yêu, đã có thể đem lại một phẩm tính kitô giáo cho cả các cơ quan dân sự nữa, bằng cách cổ võ một sự cộng tác lẫn nhau mà chỉ có thể đem lại hiệu năng cho công việc bác ái.[26] Nhiều tổ chức bác ái hay từ thiện cũng đã được thành lập và những tổ chức này đã dấn thân để đi đến những giải pháp thích hợp cho những vấn đề xã hội và chính trị của ngày hôm nay. Một hiện tượng quan trọng của thời đại chúng ta là sự xuất hiện và lan rộng những hình thức thiện nguyện khác nhau, đảm nhận rất nhiều hình thức phục vụ.[27] Tại đây tôi muốn nói lên lời cám ơn và kính trọng đặc biệt đối với tất cả những ai góp phần vào trong các hoạt động này bất cứ cách nào. Đối với người trẻ, sự dấn thân ngày càng lan rộng này làm thành một trường học của sự sống, ngôi trường này đào tạo họ về tình liên đới và sự sẵn sàng hiến dâng cho người khác, không chỉ bằng những trợ giúp vật chất mà còn bằng chính bản thân họ. Nền văn hoá-đối lập của sự chết, vốn tìm cách diễn tả chẳng hạn qua việc sử dụng ma túy, đã được chặn lại bởi một tình yêu vô vị lợi, tình yêu này tỏ bày chính mình là một văn hoá của sự sống bằng chính ước muốn “đánh mất mạng sống mình” (x. Lc 17,33) cho kẻ khác.

Trong Hội Thánh Công giáo, và cũng như trong các Giáo hội khác và các Cộng đoàn Giáo hội, những hình thức mới của hoạt động bác ái đã nảy sinh, trong khi những hình thức cũ hơn đã tái xuất hiện với một nhiệt tình đổi mới. Trong những hình thức mới này, thường có thể thiết lập một mối liên kết sinh nhiều hoa trái giữa loan báo Tin mừng và công việc bác ái. Tại đây tôi muốn tái khẳng định cách rõ ràng điều mà vị tiền nhiệm vĩ đại của tôi, Đức Gioan-Phaolô II đã viết trong Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis [28] khi ngài xác nhận sự sẵn sàng cộng tác của Hội Thánh Công giáo với các cơ quan bác ái của các Giáo hội và Cộng đoàn Giáo hội, bởi vì tất cả chúng ta có cùng động lực nền tảng và nhắm đến cùng một mục tiêu: một chủ nghĩa nhân đạo đích thực, biết rằng con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và muốn giúp con người sống theo một lối sống xứng hợp với phẩm giá ấy. Thông điệp Ut Unum Sint của ngài đã nhấn mạnh rằng việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn đòi hỏi các kitô hữu phải lên tiếng chung với nhau trong khi hành động để ghi khắc “lòng kính trọng đối với quyền lợi và nhu cầu của mọi người, đặc biệt những người nghèo, người thấp kém và không được bảo vệ.” [29] Ở đây tôi muốn diễn tả sự hài lòng của tôi khi lời mời gọi này đã có được một âm vang rộng rãi trong nhiều sáng kiến khắp thế giới.

Khía cạnh riêng biệt của hoạt động bác ái của Hội Thánh

31. Sự gia tăng các tổ chức khác nhau dấn thân trong việc đáp ứng các nhu cầu khác nhau của con người rốt cuộc là do bởi sự kiện: giới luật yêu thương người lân cận đã được Đấng Tạo hoá ghi khắc trong chính bản tính con người. Đó cũng là kết quả của sự hiện diện của kitô giáo trong trần gian, bởi vì kitô giáo thường sống và thể hiện mệnh lệnh này, mệnh lệnh thường bị lu mờ theo thời gian. Cuộc cải tổ ngoại giáo do hoàng đế Giulianô Kẻ Bội giáo thực hiện chỉ là một ví dụ ban đầu của hiệu quả này; ở đây chúng ta thấy làm sao quyền lực của kitô giáo lan rộng vượt quá các ranh giới của đức tin kitô giáo. Vì lý do ấy, thật là quan trọng khi hoạt động bác ái của Hội Thánh giữ được tất cả vẻ huy hoàng của nó và không trở thành chỉ là một hình thức khác của trợ giúp xã hội. Vậy đâu là những yếu tố nền tảng của bác ái kitô giáo và của Giáo hội?

a) Theo mẫu gương đề ra trong dụ ngôn người Samaritanô nhân lành, bác ái kitô giáo trước tiên là lời đáp trả đơn sơ cho những nhu cầu cấp thời và những hoàn cảnh riêng biệt: cho kẻ đói ăn, mặc cho kẻ ở trần, chăm sóc và chữa lành bệnh nhân, thăm viếng kẻ bị tù đày v.v… Các tổ chức bác ái của Hội Thánh, khởi đầu với tổ chức Caritas (ở bình diện giáo phận, quốc gia, quốc tế), phải làm hết mọi khả năng của mình để cung cấp các tài nguyên và trên tất cả là nhân sự cho công việc này. Những người chăm sóc những kẻ thiếu thốn trước tiên phải có nghiệp vụ: họ phải được đào tạo cách đúng đắn họ phải làm gì và làm như thế nào, và dấn thân trong việc chăm sóc thường xuyên. Quả vậy, trong khi khả năng nghiệp vụ là một đòi hỏi đầu tiên, nền tảng, điều đó không đủ. Chúng ta đang quan hệ với những con người, và con người luôn cần cái gì hơn là sự chăm sóc về phương diện kỹ thuật. Họ cần đến tình người. Họ cần đến sự quan tâm chân thành. Những ai làm việc trong những tổ chức bác ái của Hội Thánh phải nên lỗi lạc bởi sự kiện là họ không chỉ đáp ứng những nhu cầu hiện tại, nhưng họ hiến mình cho người khác với sự quan tâm chân thành, bằng cách giúp người khác cảm nghiệm sự phong phú của nhân tính họ. Vì thế, thêm vào việc đào tạo chuyên môn cần thiết, những người làm bác ái cần được “đào tạo con tim”: họ cần được dẫn tới gặp Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng thức tỉnh tình yêu của họ và mở lòng họ ra cho kẻ khác. Như thế, tình yêu đối với tha nhân không còn đối với họ là một lề luật áp đặt từ bên ngoài, nhưng là một hệ luận phát xuất từ đức tin, một đức tin trở nên sống động nhờ tình yêu (x. Gl 5,6).

b) Hoạt động bác ái của kitô giáo phải độc lập với các phe nhóm và ý thức hệ. Nó không phải là một phương thế để thay đổi trần gian về phương diên ý thức hệ, và không nhằm phục vụ các mưu kế trần gian, nhưng nó là một cách thế làm cho tình yêu hiện diện tại nơi đây và lúc này, tình yêu mà con người luôn cần đến. Thời hiện đại, đặc biệt kể từ thế kỷ XIX, đã bị thống trị bởi những bản phóng tác khác nhau của một triết lý về tiến bộ, mà hình thức triệt để nhất là thuyết Mácxít. Một phần của chiến lược Mácxít là lý thuyết bần cùng hoá: trong hoàn cảnh của một quyền lực bất chính, họ lập luận như thế, bất cứ ai dấn thân trong những sáng kiến bác ái thì đang phục vụ hệ thống bất chính ấy, bằng cách làm cho nó có vẻ có thể chịu đựng được tới một mức độ nào đó. Việc ấy làm chậm đi một cuộc cách mạng tiềm tàng và vì thế gây trở ngại cho cuộc chiến xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Nhìn theo cách ấy, bác ái bị loại trừ và bị tấn công như một phương thế bảo vệ hiện trạng status quo. Quả vậy đây là một triết lý vô nhân đạo. Con người của ngày hôm nay bị sát tế cho thần môlốc của ngày mai—một ngày mai mà sự thực hiện có hiệu quả thì đáng ngờ. Ta không thể làm cho trần gian nhân bản hơn bằng cách từ chối hành động cách nhân đạo lúc này và ở đây. Chúng ta đóng góp cho một thế giới tốt đẹp hơn chỉ bằng cách từng cá nhân làm việc thiện ngày hôm nay, với sự dấn thân trọn vẹn và bất cứ nơi nào chúng ta có cơ hội, độc lập với mọi mưu kế và chương trình của phe phái. Chương trình của kitô giáo —chương trình của người Samaritanô nhân hậu, chương trình của Đức Giêsu—là “một trái tim biết nhìn thấy”. Trái tim này nhìn thấy nơi nào tình yêu đang cần đến và hành động cách phù hợp. Rõ ràng là khi hoạt động bác ái được thực hiện bởi Hội Thánh như một sáng kiến của cộng đoàn, sự tự phát của cá nhân phải phối hợp với kế hoạch, tầm nhìn và cộng tác với những tổ chức tương tự.

c) Hơn thế nữa, bác ái không thể được sử dụng như một phương tiện để dấn thân trong cái mà ngày nay ta gọi là chiêu mộ tín đồ. Tình yêu thì tự do; nó không thể được thực hành như một phương thế để đạt tới mục đích khác.[30] Nhưng điều này không có nghĩa là phải để Thiên Chúa và Đức Kitô ra một bên. Bởi vì nó luôn liên can đến toàn thể con người. Thường nguyên do sâu xa nhất của đau khổ là chính sự vắng mặt của Thiên Chúa. Những ai thực hành đức ái nhân danh Hội Thánh sẽ không bao giờ tìm cách áp đặt đức tin của Hội Thánh trên kẻ khác. Họ nhận thức rằng một tình yêu tinh tuyền và quảng đại là chứng tá tốt nhất về Thiên Chúa mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương. Một kitô hữu biết lúc nào phải nói về Thiên Chúa và lúc nào không nói gì thì tốt hơn và để cho một mình tình yêu cất tiếng. Người ấy biết rằng Thiên Chúa là tình yêu (x. 1 Ga 4,8) và sự hiện diện của Thiên Chúa được cảm nghiệm chính vào lúc điều duy nhất chúng ta làm là yêu thương. Người ấy biết rằng—để trở về với câu hỏi đặt ra trước kia—khinh thị tình yêu là khinh thị Thiên Chúa và con người; đó là một nỗ lực hành động mà không có Thiên Chúa. Vì thế, sự bảo vệ tốt nhất cho Thiên Chúa và con người hệ tại chính yếu trong tình yêu. Trách nhiệm của những tổ chức bác ái của Hội Thánh là tăng cường ý thức này nơi các thành viên, để nhờ hoạt động của họ—cũng như nhờ lời nói, sự thinh lặng, gương sáng của họ—họ có thể trở thành những chứng nhân đáng tin cậy của Đức Kitô.

Những người chịu trách nhiệm về hoạt động bác ái của Hội Thánh

32. Cuối cùng, chúng ta phải hướng sự chú ý của chúng ta một lần nữa đến những người chịu trách nhiệm thực thi hoạt động bác ái của Hội Thánh. Như những suy tư của chúng ta trên đây đã làm rõ, chủ thể đích thực của những tổ chức Công giáo khác nhau đang gánh vác một tác vụ bác ái là chính Hội Thánh—ở tất cả mọi bình diện, từ các giáo xứ, đến Giáo hội địa phương, đến Hội Thánh toàn cầu. Vì lý do ấy quả là thích hợp nhất khi vị tiền nhiệm của tôi, Đức Phaolô VI, đã thiết lập Hội đồng Giáo hoàng Đồng Tâm Cor Unum như cơ quan của Toà Thánh có trách nhiệm định hướng và điều phối các tổ chức và các hoạt động bác ái của Hội Thánh Công giáo. Theo cơ cấu giám mục của Hội Thánh, các Giám mục, trong tư cách là người kế vị các Tông đồ, được trao phó trách nhiệm căn bản là thực thi trong Giáo hội địa phương chương trình đã được đề ra trong sách Công vụ các Tông đồ (x. 2,42-44): hôm nay cũng như trong quá khứ, Hội Thánh như gia đình của Thiên Chúa, phải là một nơi giúp đỡ lẫn nhau, và đồng thời, một nơi sẵn sàng giúp đỡ cả những người bên ngoài đang cần sự trợ giúp. Trong nghi thức truyền chức giám mục, ngay trước hành vi hiến thánh, tiến chức phải trả lời nhiều câu hỏi diễn tả những yếu tố cốt yếu của chức vụ và nhắc lại các nhiệm vụ của thừa tác vụ tương lai của mình. Ngài hứa cách rõ ràng là, nhân danh Chúa, tiếp đón và tỏ lòng nhân từ đối với người nghèo khó và với tất cả những ai đang cần an ủi và trợ giúp.[31] Giáo Luật, trong điều khoản về thừa tác vụ của giám mục, không rõ ràng đề cập đến bác ái như một lãnh vực đặc biệt của hoạt động giám mục, nhưng chỉ trình bày cách chung nhiệm vụ của giám mục là điều phối các công việc tông đồ khác nhau nhưng vẫn tôn trọng tính cách riêng của mỗi việc.[32] Tuy nhiên, mới đây, cuốn Kim chỉ nam về thừa tác vụ mục vụ của các Giám mục đã đào sâu cách cụ thể hơn nhiệm vụ bác ái như một trách nhiệm là phận sự của toàn thể Hội Thánh và của mỗi Giám mục trong Giáo phận của mình,[33] và nhấn mạnh rằng việc thực thi bác ái là một hành động của Hội Thánh, và giống thừa tác vụ ban phát Lời và các Bí tích, nó cũng đã là một phần cốt yếu của sứ mạng Hội Thánh ngay từ khởi đầu.[34]

33. Về những gì liên quan đến nhân sự đang gánh vác cụ thể hoạt động bác ái của Hội Thánh, điều chính yếu đã được nói: họ không lấy cảm hứng từ các ý thức hệ có mục tiêu là cải tiến trần gian, nhưng đúng hơn phải được hướng dẫn bởi đức tin hành động nhờ đức ái (x. Gl 5,6). Vì thế, hơn hết mọi sự, họ phải là những con người được tình yêu Đức Kitô thúc đẩy, những con người mà trái tim của Đức Kitô đã chinh phục bằng tình yêu, khi gợi lên trong lòng họ tình yêu thương đối với người lân cận. Tiêu chuẩn gợi hứng hoạt động của họ phải là khẳng định của thánh Phaolô trong Thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô: “tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta” (5,14). Ý thức rằng, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã hiến thân cho chúng ta, cả cho đến chết, phải thúc đẩy chúng ta sống không cho chính mình nữa nhưng cho Người, và, cùng với người, cho kẻ khác. Ai yêu Đức Kitô thì yêu Hội Thánh, và ao ước rằng Hội Thánh ngày càng trở nên hình ảnh và khí cụ của tình yêu tuôn tràn từ Đức Kitô. Nhân sự của mọi tổ chức bác ái Công giáo muốn hành động với Hội Thánh và vì thế với giám mục, để tình yêu của Thiên Chúa có thể lan rộng khắp gian. Khi tham dự vào việc thể hiện tình yêu của Hội Thánh, họ muốn là chứng nhân của Thiên Chúa và của Đức Kitô, và chính vì thế họ sẵn sàng làm điều thiện cho tất cả mọi người.

34. Sự mở lòng bên trong theo chiều kích Công giáo của Hội Thánh không thể không thúc đẩy những người làm việc bác ái hành động trong sự hoà hợp với các tổ chức khác khi đáp ứng những hình thức khác nhau của thiếu thốn; tuy nhiên điều ấy phải được thực hiện trong sự tôn trọng tính cách đặc biệt của công việc phục vụ mà Đức Kitô đòi hỏi nơi các môn đệ. Thánh Phaolô, trong bài thánh ca về đức ái (x. 1 Cr 13), dạy chúng ta rằng đức ái còn hơn là một hoạt động đơn thuần: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (v. 3). Bản thánh ca này phải phải là Hiến chương (Magna Carta) của tất cả mọi công tác phục vụ của Giáo hội; nó tóm tắt tất cả các suy tư về tình yêu mà tôi đã trao ban qua Thông điệp này. Hoạt động cụ thể sẽ luôn tỏ ra là chưa đủ, trừ phi nó diễn tả cụ thể một tình yêu đối với con người, một tình yêu được nuôi dưỡng bởi một sự gặp gỡ với Đức Kitô. Sự chia sẻ sâu xa của cá nhân tôi trong nhu cầu và đau khổ của người khác trở nên một chia sẻ của chính bản thân tôi với họ: để quà tặng của tôi không gây sự sỉ nhục nơi người khác, tôi phải trao ban cho người khác không chỉ cái gì của tôi, nhưng trao ban chính bản thân tôi; tôi phải đích thân hiện diện trong quà tặng.

35. Cách thức phục vụ đúng đắn người khác này cũng dẫn đến sự khiêm tốn. Người phục vụ không thể đặt mình ở trên người được phục vụ, dầu hoàn cảnh họ vào lúc này cực khổ như thế nào đi nữa. Đức Kitô đã tìm kiếm chỗ rốt hết trong trần gian—Thánh giá—và nhờ sự khiêm hạ triệt để này Người đã cứu chuộc chúng ta và luôn giúp đỡ chúng ta. Những ai đang ở vị thế giúp đỡ người khác sẽ nhận thức rằng khi làm thế chính họ lại nhận được sự giúp đỡ; có khả năng giúp đỡ người khác chẳng phải là công lao hoặc thành tựu của bản thân. Nhiệm vụ này là một ân ban. Chúng ta càng hành động cho kẻ khác, chúng ta càng hiểu và có thể áp dụng cho chính mình lời của Đức Kitô: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng” (Lc 17,10). Chúng ta nhìn nhận rằng chúng ta đang hành động không dựa trên một sự trổi vượt nào hay hiệu năng cá nhân lớn hơn nào, nhưng bởi vì Chúa đã ban ơn cho chúng ta. Có những lúc gánh nặng của thiếu thốn và giới hạn riêng của chúng ta có thể lôi cuốn chúng ta ngã lòng. Nhưng chính lúc ấy sẽ giúp chúng ta biết rằng, cuối cùng, chúng ta chỉ là những dụng cụ trong bàn tay của Chúa; và hiểu biết này giải thoát chúng ta khỏi sự kiêu căng khi nghĩ rằng chỉ mình cá nhân chúng ta chịu trách nhiệm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Với tất cả sự khiêm tốn chúng ta sẽ làm điều chúng ta có thể, và với tất cả sự khiêm tốn chúng ta sẽ giao phó phần còn lại cho Chúa. Chính Thiên Chúa lãnh đạo trần gian, chứ không phải chúng ta. Chúng ta dâng tặng cho Người sự phục vụ của chúng ta, theo mức độ khả năng chúng ta, và bao lâu Người ban sức mạnh cho chúng ta. Tuy nhiên, làm tất cả những gì chúng ta có thể, với sức mạnh mà chúng ta có, đó là nhiệm vụ bắt người đầy tớ tốt lành của Đức Kitô Giêsu luôn làm việc: “Tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14).

36. Khi chúng ta thấy vô vàn nhu cầu của người khác, chúng ta có thể, một mặt, bị lôi kéo về một ý thức hệ có tham vọng làm ngay bây giờ điều mà Thiên Chúa, khi lãnh đạo trần gian, có vẻ như không làm được: giải quyết hoàn toàn mọi vấn đề. Hoặc chúng ta có thể bị cám dỗ đầu hàng và án binh bất động, dựa trên cảm tưởng rằng, dầu sao đi nữa, chẳng điều gì được hoàn thành. Vào lúc ấy, một mối tương quan sống động với Đức Kitô là sự nâng đỡ quyết định để ở lại trên con đường đúng đắn, mà không rơi vào một sự khinh miệt kiêu căng đối với con người, là điều gì không những không xây dựng mà còn hủy hoại, hoặc đầu hàng, cam chịu, nó ngăn cản chúng ta được hướng dẫn bởi tình yêu trong việc phục vụ kẻ khác. Lời cầu nguyện, như một phương thế múc nguồn sức mạnh mới từ Đức Kitô, trở thành một sự cấp bách hoàn toàn cụ thể. Con người cầu nguyện thì không bỏ phí thời giờ, cho dù hoàn cảnh xem ra tuyệt vọng và có vẻ chỉ đòi hỏi hành động. Lòng đạo đức không làm suy yếu cuộc chiến chống lại sự nghèo khó của người lân cận chúng ta. Chân phước Têrêsa Calcutta là một gương mẫu tỏ lộ rằng thời gian dành cho Thiên Chúa trong lời cầu nguyện không những không làm tổn hại đến hiệu năng hay việc phục vụ yêu thương đối với người lân cận, nhưng lại là nguồn mạch vô tận cho công việc phục vụ ấy. Trong lá thư Mùa Chay 1996, Chân phước Têrêsa đã viết cho những người giáo dân cộng tác: “Chúng ta cần đến mối liên lạc thâm sâu với Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày. Làm sao chúng ta có thể đạt đến điều đó? Chính bằng lời cầu nguyện”.

37. Đây là lúc phải tái khẳng định tầm quan trọng của lời cầu nguyện khi đối diện với chủ nghĩa duy hoạt động và chủ nghĩa tục hoá đang lớn mạnh nơi nhiều kitô hữu đang dấn thân trong công việc bác ái. Rõ ràng, người Kitô hữu khi cầu nguyện không tự nhận là có thể thay đổi chương trình của Thiên Chúa hoặc sửa đổi điều mà Người đã tiên liệu. Đúng hơn, anh tìm kiếm một sự gặp gỡ với Cha của Đức Giêsu Kitô, để cầu xin Thiên Chúa cùng với sự an ủi của Chúa Thánh Thần hiện diện với anh và trong công việc của anh. Mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa và sự từ bỏ ý riêng có thể ngăn ngừa sự xuống cấp của con người và cứu ta khỏi trở thành mồi ngon của chủ thuyết cuồng tín và bạo động. Một tâm tình tôn giáo đích thực ngăn ngừa con người lên mặt phê phán Thiên Chúa, khi kết tội Người đã để cho nghèo đói hoành hành và không tỏ lòng thương xót đối với các thụ tạo. Khi người ta dám chống lại Thiên Chúa nhân danh các quyền lợi của con người, thì họ có thể cậy dựa vào ai khi hoạt động của con người tỏ ra là bất lực?

38. Quả thực ông Gióp đã than vãn trước mặt Thiên Chúa về sự hiện diện của những đau khổ không thể hiểu được và có vẻ phi lý trong trần gian. Trong cơn đau đớn, ông thốt lên: “Ai sẽ cho tôi biết tôi phải tới đâu để tìm Người, và làm sao đến được nơi Người ngự?... Tôi sẽ biết những điều Người trả lời tôi, và hiểu được những gì Người nói. Với tôi, Người có phải đem hết sức ra tranh luận?... Vì thế, đứng trước nhan Người, tôi đâm sợ hãi, chỉ nghĩ đến Người là đã khiếp kinh. Thiên Chúa làm cho tôi nhát đảm, Đấng Toàn Năng khiến tôi phải kinh hoàng” (23:3, 5-6, 15-16). Thường chúng ta không thể hiểu tại sao Thiên Chúa chậm trễ trong sự can thiệp. Tuy nhiên Người không ngăn cản chúng ta thốt lên, như Đức Giêsu trên Thánh giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Chúng ta phải tiếp tục đặt câu hỏi này khi đối thoại trong tinh thần cầu nguyện trước nhan thánh Chúa: “Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn?” (Kh 6,10). Chính thánh Augustinô cho chúng ta câu trả lời của đức tin trước những đau khổ: “Si comprehendis, non est Deus”—“nếu bạn hiểu được Người thì Người không còn là Thiên Chúa nữa.” [35] Sự phản kháng của chúng ta không có nghĩa là chúng ta thách thức Thiên Chúa, hoặc ám chỉ là nơi Người có sai lầm, yếu đuối hoặc lãnh đạm. Vì đối với người tin, không thể tưởng tượng được rằng Thiên Chúa bất lực hoặc “có lẽ Người đang ngủ” (x. 1 V 18,27). Trái lại, tiếng kêu than của chúng ta, như tiếng kêu của Đức Giêsu trên Thánh giá, là cách thức sâu xa và triệt để nhất để khẳng định đức tin của chúng ta vào quyền năng tối cao của Người. Dù hoang mang và không hiểu được thế giới chung quanh, người kitô hữu tiếp tục tin vào “lòng nhân hậu và yêu thương của Thiên Chúa” (Tt 3,4). Chìm đắm như mọi người trong sự phức tạp bi thảm của các biến cố lịch sử, họ vẫn đứng vững trong xác tín rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và yêu thương chúng ta, cho dù sự thinh lặng của Người vẫn khó hiểu.

39. Đức tin, đức cậy và đức ái đi đôi với nhau. Đức cậy được thực hành qua đức kiên nhẫn, nghĩa là vẫn tiếp tục làm việc lành dù khi đối diện với những thất bại bên ngoài, và qua đức khiêm hạ, nghĩa là chấp nhận mầu nhiệm của Thiên Chúa và tín thác vào Người dù trong tăm tối. Đức tin kể cho chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban Chúa Con để cứu độ chúng ta và gợi lên trong chúng ta niềm xác tín vinh thắng rằng đó là sự thật: Thiên Chúa là tình yêu! Vì thế nó biến đổi sự mất kiên nhẫn và nghi ngờ của chúng ta thành niềm hi vọng vững chắc: Thiên Chúa nắm giữ thế giới trong bàn tay của Người và như hình ảnh cảm động của phần cuối Sách Khải huyền nêu lên, dù trong đêm tối, cuối cùng Người chiến thắng trong vinh quang. Vì thấy tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải trong trái tim bị đâm thâu của Đức Giêsu trên Thánh giá, đức tin làm nảy sinh tình yêu. Tình yêu là ánh sáng—và cuối cùng, chỉ mình ánh sáng—mới có thể chiếu sáng luôn mãi một thế giới đang mờ tối và ban lại cho chúng ta lòng can đảm cần thiết để sống và hành động. Tình yêu thì có thể thực hiện được, và chúng ta có khả năng thực hành bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Kinh nghiệm tình yêu và theo cách ấy làm cho ánh sáng của Thiên Chúa đi vào trong thế giới—đó là lời mời gọi tôi muốn nêu lên với Thông điệp này.
 
KẾT LUẬN


40. Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn đến các vị thánh, các ngài thực thi bác ái cách mẫu mực. Tâm trí chúng ta đặc biệt hướng về thánh Máctinô thành Tours († 397), người chiến sĩ đã trở nên một tu sĩ và một giám mục: Ngài như thể là một bức i-côn, diễn tả giá trị không thể thay thế được của chứng từ cá nhân đối với đức ái. Bên cửa thành Amiens, Máctinô đã trao một nửa áo choàng của ngài cho một người nghèo: chính Đức Giêsu đêm ấy đã hiện ra với ngài trong một giấc mơ, mình mặc tấm áo choàng ấy, để xác nhận giá trị vĩnh cửu của lời Tin mừng: “Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc... mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,36.40).[36] Và trong lịch sử của Hội Thánh, còn biết bao chứng từ khác về lòng bác ái ta có thể trích dẫn! Cách riêng, toàn thể phong trào đan tu, từ lúc đầu với thánh Antôn Viện phụ († 356), diễn tả việc phục vụ bác ái rộng rãi đối với người lân cận. Trong cuộc gặp gỡ “mặt đối mặt” với Thiên Chúa Đấng là Tình yêu, người đan sĩ cảm thấy bị thúc bách phải biến đổi toàn thể cuộc đời thành việc phục vụ người lân cận, bên cạnh việc phục vụ Thiên Chúa. Điều này giải thích việc nhấn mạnh rất nhiều đến lòng hiếu khách, tiếp đón và chăm sóc những người yếu đau bên cạnh các đan viện. Điều ấy cũng giải thích vô vàn sáng kiến đem lại hạnh phúc cho con người và đào tạo các kitô hữu, nhắm đến trước tiên chính những người nghèo, họ là đối tượng chăm sóc trước tiên của các đan viện và Dòng khất thực, sau đó của rất nhiều tu hội nam nữ khác nhau theo giòng lịch sử của Hội Thánh. Khuôn mặt của các vị thánh như Phanxicô Assisi, Ignatiô Loyola, Gioan Thiên Chúa, Camilô Lellis, Vinh Sơn, Louise Marillac, Giuse B. Cottolengo, Gioan Bosco, Luigi Orione, Têrêsa Calcutta –nêu lên chỉ một số ít mà thôi—nổi bật như những gương mẫu trường cửu về lòng bác ái xã hội cho mọi người thiện chí. Các thánh là những người đích thực mang ánh sáng vào lịch sử, bởi vì họ là những người nam nữ của đức tin, đức cậy và đức ái.

41. Nổi bật giữa các thánh là Đức Maria, Mẹ của Chúa và là tấm gương của mọi thánh thiện. Trong Tin mừng thánh Luca chúng ta thấy Mẹ dấn thân phục vụ bác ái cho người chị họ Elisabét, Mẹ đã ở lại “khoảng ba tháng” (1,56) để giúp bà trong giai đoạn cuối của thời kỳ mang thai. “Magnificat anima mea Dominum”, Mẹ thốt lên trong dịp thăm viếng ấy, “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1,46). Qua những lời này, Mẹ diễn tả toàn thể chương trình cuộc sống của Mẹ: không đặt mình làm trung tâm, nhưng dành chỗ cho Thiên Chúa, Đấng được gặp gỡ trong lời cầu nguyện và cả trong việc phục vụ người lân cận—chỉ như thế sự thiện hảo mới đi vào trần gian. Sự cao cả của Đức Maria hệ tại nơi sự kiện là ngài muốn tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh chính mình. Mẹ sống hèn mọn: Mẹ chỉ muốn làm nữ tì của Chúa (x. Lc 1,38.48). Mẹ biết rằng Mẹ chỉ đóng góp vào việc cứu độ trần gian nếu, thay vì thực hiện chương trình riêng của mình, Mẹ đặt mình hoàn toàn theo sự sắp xếp của sáng kiến Thiên Chúa. Đức Maria là một phụ nữ của niềm hi vọng: chỉ vì Mẹ tin vào lời hứa của Thiên Chúa và trông chờ ơn cứu độ của Israel; thiên thần có thể đến thăm Mẹ và kêu mời Mẹ phục vụ dứt khoát cho những lời hứa ấy. Đức Maria là một phụ nữ của lòng tin: “Phúc cho em vì đã tin”, bà Elisabét nói với Mẹ (x. Lc 1,45). Kinh Magnificat—có thể nói được là một tấm ảnh về linh hồn của Mẹ—được dệt toàn bộ bằng những sợi chỉ của Kinh Thánh, những sợi chỉ rút từ Lời Thiên Chúa. Nơi đây chúng ta thấy Đức Maria hoàn toàn gần gũi như thế nào với Lời Thiên Chúa, ngài đi vào đi ra hết sức tự nhiên như trong nhà vậy. Mẹ nói và nghĩ với Lời Thiên Chúa; Lời Thiên Chúa trở nên lời của Mẹ, và lời Mẹ phát xuất từ Lời Thiên Chúa. Ở đây chúng ta tấy tư tưởng của Mẹ hoà hợp với tư tưởng của Thiên Chúa như thế nào, ước muốn của Mẹ nên một với ước muốn của Thiên Chúa như thế nào. Bởi vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Thiên Chúa, Mẹ có khả năng trở nên Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Cuối cùng, Đức Maria là một phụ nữ yêu thương. Làm sao có thể khác được? Là một tín hữu, trong đức tin, suy nghĩ với tư tưởng của Thiên Chúa và ao ước với ý muốn của Thiên Chúa, Mẹ không thể không là một phụ nữ yêu thương. Chúng ta cảm nhận được điều đó qua những cử chỉ yên lặng, như được kể lại trong các bài trình thuật thời thơ ấu trong Tin mừng. Chúng ta thấy điều đó qua sự tế nhị mà Mẹ nhận ra nhu cầu của đôi tân hôn tại Cana và báo cho Đức Giêsu biết. Chúng ta thấy điều đó trong sự khiêm hạ mà Mẹ chấp nhận lui vào hậu cảnh trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, bởi vì Mẹ biết rằng Chúa Con phải thiết lập một gia đình mới và giờ của Mẹ chỉ đến với Thánh giá, giờ ấy sẽ là giờ đích thực của Đức Giêsu (x. Ga 2,4; 13,1). Khi các môn đệ chạy trốn, Đức Maria vẫn đứng dưới chân Thánh giá (x. Ga 19,25-27); sau nữa, vào giờ Hiện xuống, chính họ sẽ quây quần bên Mẹ để đón chờ Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14).

42. Đời sống của các thánh không chỉ giới hạn vào tiểu sử ở dưới trần gian nhưng cũng bao hàm cuộc sống và hành động trong Thiên Chúa sau cái chết. Trong các vị thánh một điều trở nên rõ ràng: những ai đến gần Thiên Chúa thì không xa lìa con người, nhưng đúng hơn trở nên thật sự gần gũi với họ. Chúng ta không thấy điều này rõ hơn nơi người nào ngoài Đức Maria. Những lời Chúa chịu đóng đinh nói với người môn đệ—với Gioan và qua ngài với tất cả mọi môn đệ của Đức Giêsu: “Đây là mẹ con!” (Ga 19,27)—được thể hiện cách mới mẻ trong mọi thế hệ. Đức Maria thực sự đã trở nên Mẹ của tất cả các tín hữu. Những người nam nữ của mọi thời đại và mọi nơi đã trông cậy vào lòng nhân hậu của Mẹ, sự tinh tuyền khiết trinh và ân sủng của Mẹ, trong tất cả mọi nhu cầu và khát vọng, vui buồn, những giây phút cô đơn và những nỗ lực chung. Họ kinh nghiệm thường xuyên quà tặng là lòng nhân ái và tình yêu không bao giờ cạn mà Mẹ đổ vào trong sâu thẳm của tâm hồn. Những chứng từ về lòng biết ơn, được dâng lên từ mọi lục địa và nền văn hoá, là một nhìn nhận của tình yêu tinh tuyền ấy, tình yêu không tìm kiếm chính mình nhưng chỉ muốn điều thiện. Đồng thời, lòng sùng kính của các tín hữu biểu lộ trực giác không sai lầm về cách thức làm sao một tình yêu có thể được: nó trở thành như thế nhờ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, qua đó tâm hồn hoàn toàn bị Thiên Chúa chiếm hữu—một điều kiện giúp cho những ai đã uống từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa lại trở nên một nguồn suối từ đó “tuôn chảy những giòng nước hằng sống” (Ga 7,38). Đức Maria, Nữ trinh và Mẹ, tỏ cho chúng ta biết tình yêu là gì và múc nguồn cũng như sức mạnh luôn đổi mới từ đâu. Hướng về Mẹ chúng ta giao phó Hội Thánh và sứ mạng phục vụ tình yêu của Hội Thánh:

Thánh Maria, Mẹ của Thiên Chúa,

Mẹ đã ban cho thế gian ánh sáng thật,

Đức Giêsu, Con của Mẹ –Con của Thiên Chúa.

Mẹ đã phó thác hoàn toàn chính mình

vào lời mời gọi của Thiên Chúa

và vì thế trở nên nguồn suối

của lòng nhân hậu vốn tuôn trào từ Người.

Xin tỏ cho chúng con Đức Giêsu.

Xin dẫn chúng con đến với Người.

Xin dạy chúng con nhận biết và yêu mến Người,

để chúng con cũng có thể trở nên

những con người có khả năng yêu thương đích thực

và nguồn mạch của nước hằng sống

giữa một thế gian đang khát nước.

Ban hành tại Rôma, Đền thánh Phêrô, ngày 25 tháng 12, Lễ trọng Sinh nhật của Chúa, trong năm 2005, năm đầu triều đại giáo hoàng của tôi.

BENEDICTUS PP. XVI
------------------------------------
Chú thích:


[11] De Trinitate, VIII, 8, 12: CCL 50, 287.

[12] X. I Apologia, 67: PG 6, 429.

[13] X. Apologeticum, 39, 7: PL 1, 468.

[14] Thư gởi tín hữu Rôma., Inscr: PG 5, 801.

[15] X. Thánh Ambrosiô, De officiis ministrorum, II, 28, 140: PL 16, 141.

[16] X. Ep. 83: J. Bidez, Hoàng đế Giulianô, tác phẩm toàn bộ, Paris 19602, v. tôi, 2a, p. 145.

[17] X. Thánh Bộ các Giám mục, Kim chỉ nam về Thừa tác vụ mục vụ của Các Giám mục Apostolorum Successores (22/2/2004), 194, Vatican City 2004, p. 213.

[18] De Civitate Dei, IV, 4: CCL 47, 102.

[19] X. Hiến chế Mục vụ về Hội Thánh trong Thế giới ngày nay Gaudium et Spes, 36.

[20] X. Thánh Bộ các Giám mục, Kim chỉ nam về Thừa tác vụ mục vụ của Các Giám mục Apostolorum Successores (22/2/2004), 197, Vatican City 2004, p. 217.

[21] Gioan-Phaolô II, Tông huấn sau Thượng Hội đồng Christifideles Laici (30/12/1988), 42: AAS 81 (1989), 472.

[22] X. Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Ghi chú giáo thuyết về một vài Câu hỏi liên quan đến sự Tham dự của người Công giáo trong Đời sống Chính trị (24/11/2002), 1: L'Osservatore Romano, Bản tiếng Anh, 22/1/2003, p. 5.

[23] Giáo lý Hội Thánh Công giáo, 1939.

[24] Sắc lện Tông đồ Giáo dân Apostolicam Actuositatem, 8.

[25] Ibid., 14.

[26] X. Thánh Bộ các Giám mục, Kim chỉ nam về Thừa tác vụ mục vụ của Các Giám mục Apostolorum Successores (22/2/2004), 195, Vatican City 2004, pp. 214-216.

[27] X. Gioan-Phaolô II, Tông huấn sau Thượng Hội đồng Christifideles Laici (30/12/1988), 41: AAS 81 (1989), 470-472.

[28] X. No. 32: AAS 80 (1988), 556.

[29] No. 43: AAS 87 (1995), 946.

[30] X. Thánh Bộ các Giám mục, Kim chỉ nam về Thừa tác vụ mục vụ của Các Giám mục Apostolorum Successores (22/2/2004), 196, Vatican City 2004, p. 216.

[31] X. Pontificale Romanum, De ordinatione episcopi, 43.

[32] X. Điều 394; Giáo luật của Giáo hội Đông Phương, Điều 203.

[33] X. Nos. 193-198: pp. 212-219.

[34] Ibid., 194: pp. 213-214.

[35] Sermo 52, 16: PL 38, 360.

[36] X. Sulpicius Severus, Vita Sancti Martini, 3, 1-3: SCh 133, 256-258.


Lm. Phan Du Sinh dịch
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 comments:

Đăng nhận xét