VÀI
DỮ KIỆN TRIẾT HỌC LIÊN QUAN ĐẾN KHÁI NIỆM MISERICORDIA
hay
KIẾN
GIẢI VỀ TÌNH YÊU VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT KITÔ GIÁO DƯỚI GÓC ĐỘ NGÃ VỊ
DẪN
NHẬP
Khái niệm misericordia, nhất là khi
dùng khái niệm ấy cho Thiên Chúa, có lẽ là nét đặc trưng của Sách Thánh Do Thái
– Kitô giáo, và phần nào trong kinh Coran của Hồi giáo. Trong các tôn giáo và
văn hóa khác, người ta có thể tìm thấy nhiều khái niệm gần gũi như: tấm lòng, từ
bi, tình yêu, cảm thông, bao dung,… Nét có vẻ tương tự của nhiều khái niệm ấy có
thể làm chúng ta dễ dàng đi quá mau đến ý nghĩa thống nhất của những giá trị
siêu hình gắn liền với bản chất người. Sự thống nhất ấy có thực, nhưng cũng
không phải vì thế mà người ta bỏ qua những nét riêng biệt của mỗi nền văn
hóa-tôn giáo; và đối với chúng ta, thì không được vì thế mà đánh mất nét đặc
trưng, xuyên suốt của sứ điệp mặc khải.
Có lẽ chúng ta có thể tiếp cận khái
niệm lòng thường xót bằng cách:
1/. So sánh khái niệm “lòng thương xót”
với một lý tưởng sâu xa trong văn hóa Hy Lạp, khái niệm ataraxia. Nếu như,
trong truyền thống Thần học Kitô giáo, lòng thương xót là một phẩm tính cao cả
nhất của Thiên Chúa,[1] thì sự thanh thản là nét căn bản nhất
của Thượng Đế, và của Triết gia trong văn hóa – tôn giáo Hy Lạp. Từ đó, ta có
thể thấy nét đặc trưng của lòng thương xót trong Sách Thánh có khả năng làm nổi
bật tính ngã vị.
2/. So sánh khái niệm “lòng thương xót”
trong truyền thống Sách Thánh với “lòng từ tâm” (pitié) trong tư tưởng Triết học
của Triết gia Đức A. Schopenhauer, một Triết gia chịu ảnh hưởng của văn hóa tôn
giáo Ấn Độ và là người được coi như “Triết gia thực sự của thời hiện đại về
lòng cảm thông”.[2] Nhưng đây lại là một phản ứng trong
dòng sức sống của chính Kitô giáo, và chúng ta cũng đọc thấy một sự đe dọa của
vũ trụ luận trên ngã vị.
I.
KHÁC BIỆT TỰ CỘI NGUỒN
Có vẻ như hai thứ “lòng thương xót”
và “sự thanh thản” chỉ là một loại tình cảm, hoặc một thái độ luân lý, một chi
tiết nhỏ so với những vấn đề căn bản của tín lý. Tuy nhiên, nếu theo nguyên tắc
của Đức Giêsu: xem quả biết cây, việc so sánh nói trên có thể giúp chúng ta
khám phá nét tinh tế của sứ điệp mặc khải Do Thái – Kitô giáo, một sứ điệp làm
nổi bật ngã vị của cá nhân mỗi con người.
1.
Nền tảng văn hóa – tôn giáo[3]
của ataraxia
Tự cội nguồn của nền văn hóa – tôn
giáo Hy La và Kitô giáo, có lẽ có vài quan niệm liên quan đến vấn đề của chúng
ta: quan niệm về thời gian, quan niệm về con người, quan niệm về Thượng Đế,…
– Trong các nền văn hóa tôn giáo
ngoài Sách Thánh, thời gian đi theo vòng tròn. Thời gian không có khởi đầu và không
có kết thúc, nhưng chỉ có những đại niên thật lớn, và vũ trụ sẽ lại trở về như
lúc khởi đầu. Do đó, đặc tính tuần hoàn bao trùm tính lịch sử. Lịch sử cùng tất
cả những sự kiện, biến cố, ngã vị,… không có tính tuyệt đối, nhưng bị tan loãng
trong chu kỳ tuần hoàn của vòng thời gian. Người Hy Lạp không có được quan niệm
sáng tạo từ hư vô như sách Sáng Thế.
Trong vòng tuần hoàn ấy, tinh thần và
vật chất đều vĩnh cửu cùng với thời gian. Vật chất vốn mang bản chất hỗn độn,
còn tinh thần là sự trật tự đều hòa. Tinh thần mang lại trật tự nào đó cho vật
chất, chứ không phải tinh thần tạo ra vật chất (duy tâm) hoặc vật chất tạo ra
tinh thần(duy vật). Phẩm tính tinh thần, biểu lộ trong nét trật tự, đều hòa trổi
vượt hơn sự hỗn độn thất thường của vật chất.
– Con người là một thành phần của vũ
trụ. Vũ trụ lớn hơn con người, cao quý hơn con người. Con người là tiểu vũ trụ
(microcosmos) nên phải hòa với đại vũ trụ (macrocosmos). Trên nền tảng ấy, lý
tưởng của cuộc sống con người đã hàm chứa giá trị ưu việt của một quy luật vũ
trụ, quy luật bao trùm và vô ngã. Tính ngã vị không được đề cao nhưng là một sự
khôn ngoan để biết quy luật và để hòa mình vào trật tự chung của vũ trụ.
– Đối với người Hy Lạp, Thượng Đế là
Đấng hoàn toàn “hạnh phúc”. Hạnh phúc ấy hệ tại việc Ngài là nguyên lý của vũ
trụ và muôn loài phải hướng về Ngài như mẫu mực; nhưng chính Ngài thì lại không
cần quan tâm đến sự gì khác bên ngoài mình. Thượng Đế là nam châm hút sắt mà
không biết mình hút. Từ cội nguồn của một quan niệm văn hóa tôn giáo khinh chê
vật chất và thân xác, người Hy Lạp cho rằng thần tạo hóa (Démiurge), có trách
nhiệm về vũ trụ này chỉ là một thứ thần thứ cấp. Chính Thượng Đế cao cả thì
không hề dính dáng gì tới vũ trụ, đặc biệt là những thứ vụ trụ dính vào mặt đất
và hay thay đổi. Ngược lại, thứ vũ trụ không dính vào đất, các tinh tú, lại biểu
lộ một sự đều hòa, trật tự. Từ quan niệm ấy, người Hy lạp đã sớm đồng nhất Thượng
Đế với những qui luật, những quy luật đều đặn của vũ trụ. Thượng Đế bày tỏ mình
trong một vũ trụ trật tự, được điều hành theo những quy luật trật tự, nhất là
trong các tinh tú. Vì thế, các tinh tú cũng được tôn trọng như là thần thánh.
Triết gia Anaxagore (khoảng 500-428 TCN) đã bị kết án là vô luân vì chủ trương
rằng mặt trời chỉ là một khối đá cháy đỏ. Ngược lại, Triết gia Socrate bị lên
án vì ba tội, trong đó có tội du nhập thần mới, vì Socrate cho rằng ông có một
vị thần hộ mệnh riêng, hướng dẫn và chỉ bảo cho ông trong những lúc khó khăn,…
– Từ những nền tảng văn hóa – tôn
giáo ấy, người Hy lạp cũng không chấp nhận được các thần thánh hành xử theo ý
muốn “trái chứng trở trời”. Trong lịch sử thần thoại của người Hy lạp, các thần
già, thần Titans, như những “thổ địa”, hành xử theo kiểu “rừng nào cọp ấy”, dần
dần bị thay thế bằng một “hệ thống trật tự” các thần trẻ mà đứng đầu là thần
Zeus. Cũng thế, thay vì một thứ “siêu hình học” mang tính thần thánh mà con người
phải lệ thuộc ý muốn ngẫu hứng của các ngài bằng việc cúng tế, người Hy lạp đã
hình thành nên được một thứ“siêu hình học tự nhiên”. Thần thánh diễn tả ý muốn
của mình qua quy luật và con người cũng tìm cách sống thuận theo thần thánh bằng
cách sống đúng “quy luật tự nhiên”. Yếu tố logos thay thế cho ý muốn trái chứng
trở trời của thần thánh; khát vọng tìm một sự hiểu biết mang tính khoa học
(épisteme) là khát vọng lớn nhất, có khả năng biến những kiến thức mang tính thực
hành của các dân tộc khác trở thành khoa học thực sự, khát vọng ấy không phải
chỉ do tinh thần hiếu trí, mà còn là một thái độ mang tính tôn giáo, là con đường
đạt được cứu cánh trở nên như thần thánh.
– Từ đây, thái độ của con người đứng
trước thần thánh không còn là sự hên xui may rủi trôi nổi theo ý muốn của thần
thánh, mà là một sự chắc tâm dựa trên khả năng của lý trí. Trước“hệ thống qui
luật”, thế đứng của con người trở nên quan trọng hơn. Đây cũng là một “bừng tỉnh”
về vị thế của con người. Cụ thể là các Triết gia trở thành mẫu người quan trọng
nhất, rồi đến các vị lãnh đạo. Vị trí xã hội của giới tăng lữ bị hạ thấp, vì việc
cúng tế chỉ là một cách an ủi, xuê xoa, dành cho những người bình dân, những
người không có khả năng hiểu biết quy luật để sống đúng quy luật.
– Từ đó, ta thấy xã hội Hy Lạp cổ xưa
có một số giá trị căn bản, theo đó, những khái niệm Thượng Đế, thiên nhiên,
khôn ngoan, hạnh phúc, nhân đức, và thanh thản (ataraxia)… có ý nghĩa liên lập
và thông hiệp chặt chẽ với nhau. Thượng Đế tỏ hiện trong các quy luật điều hoà
của vũ trụ, người khôn ngoan là người biết sử dụng lý trí để hiểu được Thượng Đế
và biết sống hoà hợp với thiên nhiên để nên giống với Ngài. Sống nhân đức hoặc
sống giống với Thượng Đế, chính là biết tìm thấy hạnh phúc trong tình trạng
thanh thản ataraxia.
2.
Nền tảng “siêu hình” của Sách Thánh
Có thể nói 11 đoạn đầu Sách Sáng Thế
là một thứ “siêu hình học” của toàn bộ Sách Thánh; trong đó, người ta thấy nhiều
mạc khải rất “cách mạng” so với những quan điểm văn hóa tôn giáo khác.
– Câu đầu tiên trong Sách Sáng Thế là
một khẳng định hoàn toàn mới: “Lúc khởi đầu,Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St
1,1). Quan niệm sáng tạo từ hư vô đã đưa vào thế giới một mô hình hoàn toàn mới.
Thiên Chúa đã “cắt đứt” thời gian như một vòng tròn vô tận. “Biến cố” ấy không
nằm trong vòng tuần hoàn của thời gian, không nằm trong diễn biến “tự nhiên”, tất
yếu, theo đúng theo quy luật của vũ trụ. Tác động sáng tạo từ hư vô là một tác
động của một ngã vị bên ngoài, bên trên vũ trụ; một ngã vị có lý trí và có tự
do; đó là một ân ban. Tác động ấy khẳng định có một “thế giới” khác, “thế giới
siêu nhiên”. Bản chất của vũ trụ này không còn thuần nhất là một vũ trụ “tự
nhiên”, nhưng là sự đan bện giữa tự nhiên và siêu nhiên.
– Biến cố ấy cũng cho thấy, trong cuộc
vận hành của vũ trụ, yếu tố ngã vị đi bước trước, ân ban trong tự do đi bước
trước; và nhất là, trong cuộc vận hành của vũ trụ, ân ban có tính ngã vị sẽ chiến
thắng “tính hư vô”. Việc sáng tạo từ hư vô được thể hiện trọn vẹn trong cuộc
chiến thắng từng bước “tính hư vô” về ý nghĩa của vũ trụ. Cuộc vận hành của vũ
trụ không còn là một vận hành vòng tròn, miên man, đều đặn, nhưng mang lấy một
vận mạng hướng tới điểm thành toàn. Yếu tố lịch sử trở thành “môi trường” căn bản.
Con người không còn là “tiểu vũ trụ”
phải thuận theo, phải hòa tan vào “đại vũ trụ” vô ngã; nhưng chính con người được
sáng tạo nên “giống hình ảnh Thiên Chúa”, để đi vào cấp độ sống-với-Ai, sống với
một Thiên Chúa ngã vị cũng như với tha nhân; và để lãnh trách nhiệm“thống trị mặt
đất” (St 1,28). Môi trường lịch sử chính là nơi diễn ra một cuộc “cuộc chiến”
gay go; trở nên như một “cuộc chơi” kỳ diệu, “cuộc phiêu lưu” đầy bất ngờ,…
Chỉ trên nền tảng siêu hình mới của sách
Sáng Thế, chúng ta mới có thể hiểu rõ hơn sự khác biệt căn bản giữa “bản chất”
của Thiên Chúa, cũng như những “thái độ cư xử” của Ngài, so với hình ảnh Thượng
Đế và tư cách của các vị ấy trong những nền văn hóa – tôn giáo khác.
– Kinh Thánh Do Thái Kitô giáo cho thấy
một Thiên Chúa khác hẳn với hình ảnh Thượng Đế của người Hy Lạp. Thiên Chúa của
Kinh Thánh không an vị, thanh thản trong thế giới hạnh phúc của Ngài, nhưng
Ngài dính dáng vào thụ tạo, đặc biệt là con người. Thiên Chúa trong Kinh Thánh
là một vị Thiên Chúa “dấn thân”. Ngài “dính dáng” vào vận mạng của vũ trụ. Ngài
như thể “liên lụy” vào vận mạng của con người.
Thiên Chúa dấn thân trong việc tự do
sáng tạo nên vũ trụ. Rồi Ngài dấn thân khi hứa với Adong Evà về một ơn cứu độ
(St 3,15); Ngài hứa với Noe, rồi đi vào một giao ước với Abraham (Xc. St 17).
Tiến trình đó dẫn dần đến một giao ước chính thức, đúng nghĩa, giữa Thiên Chúa
với Dân riêng trên núi Sinai (Xh 24).
– Qui chế giao ước là nét đặc trưng của
“văn hóa – tôn giáo” Sách Thánh. Giao ước là mối tương quan đặt nền tảng trên
giá trị của ngã vị. Trong giao ước, dù là giao ước cũ, ngã vị của Thiên Chúa
làm bật lên ngã vị của con người. Giao ước là một đảm bảo cho phẩm giá của ngã
vị. Vị thế con người là một phần “không thể thiếu” trong quy chế giao ước. Ngay
trong sáng tạo, con người đã được vinh dự đón nhận phẩm giá “giống hình ảnh
Thiên Chúa”, mà ý nghĩa sâu xa nhất là để “sống-với-Chúa”. Phẩm giá ấy được
nâng cao khi con người trở thành “đối tác” với Thiên Chúa trong giao ước.
– Tuy nhiên, trong khi người Hy lạp
tìm thấy vị thế quan trọng của con người với khả năng của lý trí, một lý trí biết
khám phá quy luật của thần thánh, được hướng dẫn theo phạm trù đúng/sai, để biết
“sống thế nào”; thì con người theo Sách Thánh lại tìm thấy vị trí cao quý của
mình như một ngã vị, được mời gọi đi vào mối tương quan ngã vị; được hướng dẫn
theo phạm trù căn bản là trung tín/bất trung, để hình thành nên một cách sống
“sống với ai”.
3.
Thái độ luân lý căn bản
– Thái độ ataraxia được đề cao đặc biệt
như là một lý tưởng sống của những trường phái Triết học sau Aristote, nhưng đó
không phải là một điều mới lạ, vì thực sự chủ trương này vẫn là lý tưởng chung,
xuất phát từ nền tảng văn hóa tôn giáo Hy Lạp. Đối với người Hy Lạp nói chung,
người khôn ngoan là người tránh được mọi xáo trộn, không bị đam mê lôi cuốn(Apathès).[4] Người khôn ngoan là người biết cách
sống làm sao để không đau khổ, không giận dữ, không bực mình, không bị trói buộc.
Các Triết gia sau-Aristote như các trường phái khoái lạc, khắc kỷ, hoài nghi,
hoặc thần bí sau đó đều thiết tha tìm phương thức sống đạo đức trong tinh thần
khôn ngoan ấy. Có lẽ Démocrite (khoảng 460 TCN) là người đầu tiên đã tìm cách
diễn giải ý nghĩa của từ ataraxia. Theo Stobée, Démocrite nói rằng: “Ataraxia
là tình trạng bình an, hoà điệu và cân bằng (nội tâm)”.[5] Triết gia khoái lạc Épicure
(341-270) thì cho rằng, ataraxia hệ tại “được giải thoát khỏi mọi sợ hãi”. Tuy
nhiên, chính các Triết gia Khắc Kỷ mới là những người hết lòng ca ngợi phẩm chất
của ataraxia hơn cả. Trong tình trạng có được ataraxia, người khôn ngoan không
bị lay chuyển,[6] thản nhiên đối với những gì đến từ
bên ngoài;[7] người khôn ngoan không bị xáo trộn
trong tâm hồn.[8] Lý tưởng sống của Triết gia khắc kỷ
được phát biểu: nếu anh có một người bạn đau khổ, anh hãy tỏ vẻ cảm thông,
nhưng lòng anh đừng rúng động. Điều đó có nghĩa là, mặc dù tỏ vẻ cảm thông, anh
vẫn có thể ăn ngon, ngủ ngon và giữ được tình trạng thanh thản của chính mình.
Lý trí khôn ngoan phải hướng dẫn để người ta biết cách dung hoà giữa trạng thái
an ổn trong lòng và những biến động bên ngoài. Người Hy Lạp khôn ngoan phải biết
giữ gìn sự thanh thản cho bản thân mình như yếu tố căn bản, rồi sau đó tìm
phương thế diễn tả mối tương quan của mình với tha nhân, diễn tả cách nào đó để
không rơi vào tình trạng sai lạc hoặc ác độc.
– Trong khi đó, dù với lối diễn tả
“nhân hình”, Sách Thánh cho thấy một vị Thiên Chúa không phải như một quy luật,
không phải như một Đấng an ổn, thanh thản trong chính Ngài, nhưng là vị Thiên
Chúa đi vào cuộc “phiêu lưu tình nghĩa” với con người. Ngài sáng tạo con người
trong yêu thương, Ngài tuyển chọn Dân riêng và đem lòng quyến luyến với Dân:
“ĐỨC
CHÚA đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi
dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân” (Dnl 7,7; xc. Dnl 10,15;…).
Thiên Chúa nhất quyết giành lấy Dân
riêng cho mình, không muốn chia phần cho bất cứ ai khác:
“Vậy
ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì ĐỨC CHÚA mang danh là Đấng
ghen tương, Người là một Vị Thần ghen tương” (Xh 34,14; xc. Dnl 4,24;…).
Thiên Chúa tự buộc mình trong lời hứa
(St 3,15), và đặc biệt trong Giao ước (Xc. Xh 24,1-18); rồi Thiên Chúa thể hiện
phẩm chất trung tín của Ngài trong lời hứa và giao ước:
“Nếu
ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ
chính mình”
(2Tm 2,13).
Mối thâm tình của Thiên Chúa với Dân
của Ngài không phải là một sự an ổn có phần “đóng kín”, mà là sự “rung động” của
tình thương để rộng mở với ai khác. Nói như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “sống trong
đời sống, cần có một tấm lòng… để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi”. Nói rằng
“sống trong đời sống cần có một tấm lòng”, đó là điều mà mọi tôn giáo, các học
thuyết đạo đức luôn đồng ý với nhau. Nhưng có tấm lòng đến độ chịu “để gió cuốn
đi”, thì đây lại là một phẩm chất đặc biệt của Kinh Thánh, của Kitô giáo.
Truyền thống Kinh Thánh đề cao phẩm
chất cao cả nhất của Thiên Chúa là lòng từ bi thương xót:
“CHÚA
là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 145,8; xc. Xh 34,6;…).
Trong Tân Ước, Đức Giêsu cũng khẳng định
phẩm chất từ bi thương xót như thế trong sứ vụ của Ngài. Đức Giêsu khởi đầu sứ
vụ rao giảng Tin Mừng bằng những lời đã được tiên báo trong ngôn sứ Isaia:
“Được
quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người
đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người
tôn vinh. Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội
đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ
trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần
Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng
cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được
tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa”
(Lc 4, 14-19).
Khi Tân Ước nói Chúa Giêsu chạnh lòng
thương, thì điều đó không chỉ tỏ bày một phẩm chất đạo đức luân lý, nhưng còn
hàm nghĩa Chúa Giêsu chính là Đấng tỏ lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
Mt 9,36: “Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng,
như bầy chiên không người chăn dắt”. (xc. Mt 14,14; Mt 15,32; Lc 7,13;…).
Lòng từ bi thương xót chính là dấu hiệu
căn bản để nhận ra Đấng Mêsia. Do đó, những ai không đi vào mạch nguồn của Kinh
Thánh để khám phá ra một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, sẽ có nguy cơ không
nhận ra và không tin vào Đức Giêsu:
“Ông
Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ
đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là
chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại
cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi,
người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe
Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11, 2-6).
Chúa Giêsu đã thể hiện đến cùng lòng
“yêu thương điên rồ” của Thiên Chúa khi chấp nhận đường lối cứu độ bằng cách
trao ban chính bản thân và cả cuộc đời mình cho nhân loại (trao thân gửi phận).
Thập giá và bí tích Thánh Thể là thứ tình yêu “điên rồ” như vậy.
Trên nền tảng ấy, ta có thể thấy từ
ngữ Hy Lạp ataraxia chính là phản nghĩa với các từ ngữ được Kinh Thánh dùng để
chỉ tấm lòng của Thiên Chúa: – “Splagchnizomai” (chạnh lòng thương); hoặc từ
“rahamim” {lòng yêu thương bắt nguồn nơi tấm lòng người mẹ (rekhem) hoặc nơi
tâm can (rakhamim) của người cha},… và lòng từ bi thương xót…
Đây không phải chỉ là một sự khác biệt
văn hoá, không phải là một sự đa dạng làm cho phong phú kho tàng văn hoá của
con người. Một cách nào đó, sự khác biệt này hàm chứa một sự đối nghịch sâu xa
về giá trị, khiến cho điều tốt của bên này lại có thể chính là sự sa đoạ của
bên kia. Chính vì tiêu chuẩn giá trị về sự khôn ngoan theo kiểu ataraxia như thế,
người Hy Lạp cho rằng thập giá là sự điên rồ. Một Thiên Chúa yêu thương đến độ
nhập thể làm người, hy sinh chịu chết khổ đau vì yêu thương… đó là điều chẳng
những không khôn ngoan mà còn trái ngược hẳn với sự khôn ngoan, là sự điên rồ:
“Trong
khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà
người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.
Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy
chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của
Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa
còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”
(1 Cr 1, 22-25).
Dĩ nhiên, trong một cái nhìn toàn diện
hơn, ta cần phải có một thái độ bao dung và tìm được“chữ hòa” trong những giá
trị tự nhiên và giá trị siêu nhiên, vì “ân sủng không phá hủy nhưng kiện toàn bản
tính tự nhiên”;[9] giống như trường hợp Đức Giáo Hoàng
Benedicto XVI nói “agape” không loại trừ “eros”, nhưng thanh lọc và nâng cấp
“eros”. Cũng thế, lòng thương xót không loại trừ ataraxia nhưng thanh lọc và
nâng cấp ataraxia. Ataraxia là một thái độ minh Triết có thể giúp con người,
trong một vài trường hợp, vượt qua thái độ ham muốn những điều vụn vặt. Nhưng
khi người ta tuyệt đối hóa thái độ ataraxia như một lý tưởng mang lại hạnh
phúc, cứu cánh của đời người, thì người Kitô hữu cần xác tín hơn vào thái độ
xót thương…
– Một ví dụ cụ thể: Khi tôi bị ai chửi
mắng, có một cách giải quyết, đó là xóa bỏ ngã vị người ấy, theo kiểu: đời là
thế, cuộc sống vẫn luôn như vậy… và ta thấy nhẹ lòng hơn; đó là cách tìm
ataraxia. Hoặc người ta cũng có thể giải gỡ nỗi đau ấy một cách khác, mang tinh
thần Kitô giáo nhiều hơn: tôi càng nhìn rõ, nhận thức rõ kẻ đó là ai, tên gì,
hiểu hoàn cảnh của người đó và nhận ra kẻ đó đáng thương, nhất là được Chúa
thương xót…; đây lại là phương cách tìm thấy sức sống của misericordia.
II.
NHIỀU BIẾN THÁI TRONG “HOA TRÁI”
1.
Nền tảng Triết học của Schopenhauer
a/.
Ý chí chứ không phải lý trí là nền tảng của vũ trụ và con người
Triết học Schopenhauer (1788-1860),
trước tiên là một sự phê bình quan điểm duy lý ở đỉnh cao của Kant; nhưng đồng thời
cũng là một sự đảo ngược đối với toàn bộ truyền thống duy lý của Triết học Tây
Phương. Cụ thể, thực tại mà Kant nói tới như là “vật tại thân”, cái mà lý trí
không thể đạt tới, thì đối với Schopenhauer, “vật tại thân” chính là một sự sống,
một mãnh lực sống của toàn bộ vũ trụ mà Schopenhauer gọi là ý chí. Chính ý chí
mới là cội nguồn của toàn bộ vũ trụ và dĩ nhiên đối với cả con người. Ý chí sống
của vũ trụ là một sức mạnh vô giới hạn, liên tục sáng tạo, hình thành nên muôn
vàn sự vật và nẩy sinh các giá trị; đồng thời lại có khả năng tự vượt qua chính
những hình thức ấy để tạo nên những hình thức và những giá trị mới.
Ông cho rằng sai lầm của các Triết
gia chính là coi con người như “động vật có lý trí”. Theo ông, ý thức chỉ là bề
mặt của tâm thức. Bên dưới trí năng hữu thức chính là dục vọng, dục vọng vô thức
hay hữu thức. Thỉnh thoảng ta thấy như thể trí năng có thể điều khiển ý chí,
nhưng trong toàn bộ, trí năng chỉ là hiện tượng nhất thời.
“Lý
trí là quan năng tạo ra cái quan niệm, đối tượng của luận lý học”… Yếu tính của quan năng này không phải
là tìm kiếm cái nguồn cội không bị điều kiện hóa… Các quan niệm do trí năng tạo
ra chỉ là “những biểu tượng của biểu tượng”;[10] “là những biểu tượng được rút ra từ
những biểu tượng”;[11] trí năng chỉ nhằm để sắp xếp, xác định
và để nối kết những kiến thức tức thời của trí hiểu, chứ không bao giờ sản sinh
ra một sự hiểu biết đích thực…
Trong khi đó, ý chí là thực tại duy
nhất, không phân chia và không có thời gian, thoát khỏi nguyên lý cá biệt hóa.
Chính ý chí tự biểu hiện cách đa dạng trong sức mạnh, trong giống loại, và cả
trong tính cách khả tri của vũ trụ… Đó là một sự đa dạng hóa siêu hình chứ
không phải là chỉ có tính hiện tượng.
b/.
Sự ưu thắng của ý chí chung trên cá thể
Bản thể tự tại của ý chí nằm trong chủng
loại hơn là trong cá nhân. Sức mạnh của ý chí thúc đẩy vũ trụ chuyển động,
nhưng tất cả mọi hoạt động sẽ qua đi, chỉ còn lại cái ý chí vĩnh cửu. Mỗi sinh
vật đều được thúc đẩy hoạt động đến độ “hy sinh” cả bản thân mình cho sức sống
của ý chí được tiếp tục tồn tại trong giống loại. Đối với con người cũng không
có ngoại lệ. Mỗi cá nhân không có giá trị gì đối với thiên nhiên, và thiên
nhiên không chăm lo cho từng cá nhân, mà chỉ chăm lo cho loài. Do đó, đời sống
con người không phải là một ân huệ để vui hưởng, nhưng là nhiệm vụ nặng nề phải
chu toàn, đó là phục vụ cho ý chí sống của tất cả vũ trụ.
c/.
Tâm tình bi quan
Không kể nguyên nhân của chủ trương
bi quan do từ tính tình cá nhân từ thuở thơ ấu của ông, cũng như do mối tương
quan xung khắc với bà mẹ, tính chất bi quan trong Triết học của Schopenhauer do
từ một khám phá ra sức mạnh của “nguyên lý túc lý”, với tất cả tính cách tất định
của nó, chi phối toàn bộ vũ trụ, từ những sự kiện vật lý, đến các lý luận luận
lý, các bài toán cho đến cả bình diện đạo đức.
Cuộc sống con người không thể nào
thoát được quy luật tất định. Quy luật ấy xô đẩy vạn sự như một sức mạnh mù
quáng, tất cả chỉ nhằm đưa đến một cái gì vô nghĩa. Ông cho rằng,“cuộc đời là một
cuộc buôn bán, mà tiền lời không đủ bủ đắp các chi phí”. Con người không thể có
được hạnh phúc thực sự, vì con người không bao giờ có thể lấp đầy được lòng ham
muốn vô đáy, con người chỉ có thể tìm cách tạm thời chấm dứt một số đau khổ nào
đó. Đời người là một nỗ lực không có mục tiêu, không có ý nghĩa “đời sống của mỗi
cá nhân… thực sự là một bi kịch, mà đi vào chi tiết, nó có đặc tính của một hài
kịch”.
Sự sống vô nghĩa của ý chí đưa
Schopenhauer tới lập trường bi quan, chối từ và cam chịu đầy khổ hạnh… theo đó
các biểu hiện của sự sống nơi những cá thể và cá nhân con người thật ra chỉ do
từ một sức sáng tạo vô ngã, hướng tới sự thống trị của giống loài và của toàn
thể vũ trụ.
d/.
Nẻo đường giải thoát
Đứng trước thách đố của “vật tại
thân” mà Kant đã nêu ra và khẳng định con người không thể biết được nó là gì,
Triết học của Schopenhauer khám phá ra “khung cửa hẹp” để con người có thể đi
vào bản chất chân thực của thế giới, bản chất của “vật tại thân”, đó là: con
người có được kinh nghiệm hay có được một nhận thức về chính ý chí của mình. Vì
chính mỗi người chúng ta cũng là “vật tại thân”, và bản chất sự sống của mỗi
người như vật tại thân ấy không là gì khác hơn sinh hoạt của ý chí, mang tính tất
yếu của quy luật vô ngã và thuộc về một ý chí phổ quát của cả vũ trụ. Như thế,
con đường “từ bên trong” cho phép con người thâm nhập vào bản chất của vật tại
thân, và từ đó mà khám phá ra chân lý của cả vũ trụ, chân lý ấy không là gì
khác hơn chính ý chí phổ quát. Văn phong của Schopenhauer ít có từ ngữ trừu tượng,
nhưng tràn ngập những kinh nghiệm và những kiến giải về những điều có thể so
chiếu với kinh nghiệm con người.
Schopenhauer giới thiệu hai đường lối
để con người có thể giải thoát khởi sự xô đẩy nghiệt ngã và mù quáng của ý chí:
đó là con đường đạo đức và con đường thẩm mỹ.
– Với con đường chiêm ngưỡng cái đẹp
trong nghệ thuật, con người có thể thoát ra khỏi sự xô đẩy của dục vọng, chế ngự
được sự khích thích của những ham muốn ích kỷ. Nhiệm vụ của nghệ thuật là giúp
con người nâng cao tâm hồn để chiêm ngưỡng chân lý một cách vô dục. Ông định
nghĩa nghệ thuật gần giống như điều Kant đã nói trong tác phẩm “Phê Bình Khả
Năng Phán Đoán”: đối tượng của khoa học là cái phổ quát chứa đựng nhiều cái đặc
thù, đối tượng của nghệ thuật là cái đặc thù chứa đựng một cái phổ quát. Niềm
vui mà nghệ thuật mang lại là người ta có thể ngắm nhìn đối tượng nghệ thuật,
trực giác được cái phổ quát của nó, tìm thấy nơi đó cái “linh tượng” theo kiểu
Platon và thoát khỏi ảnh hưởng của cái dục vọng nơi ý chí cá nhân. Đối với
Schopenhauer, ngành nghệ thuật cao cấp nhất chính là âm nhạc.
– Con đường giải thoát khác, đó là nẻo
đường của tình yêu và nhất là lòng thương cảm. Ta có thể đọc thấy ở đây một nhiều
lời của Schopenhauer mà ngỡ như là lời của một giáo phụ Kitô giáo.
Chống lại tính duy lý trong luân lý của
Kant, Schopenhauer coi lòng thương cảm chính là nền tảng của luân lý. “Lòng thương cảm (pitié), hay lòng trắc ẩn
(compassion), là sự tham dự trực tiếp, không có một ẩn ý nào trước hết vào những
đau khổ của người khác, và sau đó là tham dự vào cách làm ngừng lại, hoặc tiêu
hủy những điều xấu ấy”.[12]
“Lòng
thương cảm ấy đưa tới hành động tích cực để gạt bỏ hoặc giảm thiểu nỗi khổ của
tha nhân: Hành động đích thực, tích cực hoặc tiêu cực, là một điều tốt luân lý,
là được hướng dẫn nhằm tới lợi ích hoặc thuận lợi cho một ai khác”.[13]
Để cho hành động của tôi được thực hiện
chỉ nhằm tới tha nhân, thì điều thiện cho tha nhân ấy cũng phải là sự thiện cho
tôi, với cùng một lý do và cùng một danh nghĩa y như vậy.
“hoặc
là, giả thiết rằng, bằng một phương cách nào đó, tôi đồng nhất với hắn, đến độ
tất cả những khác biệt giữa tôi và tha nhân bị tiêu hủy, hoặc ít là bị giảm thiểu
đến một điểm nào đó; bởi vì chính trên sự khác biệt này mà tính ích kỷ ngự trị”.[14]
Như thế, ông khẳng định lòng thương cảm
này là nguyên lý hiện thực duy nhất của một sự công chính và của tất cả mọi
tình yêu thương chân thực. Lòng thương cảm không phải chỉ là nền tảng của luân
lý. Hơn nữa, lòng thương cảm còn mang một chức năng siêu hình căn cốt. Trong
kinh nghiệm về lòng thương cảm, con người cảm nhận được một sự duy nhất căn bản
của mọi hữu thể, ngay cả với những vật vô hồn. Như thế, lòng thương cảm khai mở
yếu tính tối hậu của sự vật, sự duy nhất của vật tại thân. Cũng như tính dục là
một một “tổ ấm đích thực” của ý chí, khi mà ý chí tự khẳng định, thì cũng vậy,
lòng thương cảm xuất hiện cho chúng ta như một sự khởi đầu của ý chí, khi mà ý
chí đạt tới sự chối từ chính bản thân mình. Do đó, lòng thương cảm còn mang
tính siêu hình hơn là tính dục; chắc chắn rằng tính dục như là kinh nghiệm
riêng tư của ý chí, cho phép con người xuyên thấu lớp vỏ của hiện tượng, để đạt
tới một hạt nhân của hữu thể, nhưng lại không giải thoát con người khỏi sự hành
hạ của khát vọng và của sự khác biệt. Chỉ có kinh nghiệm về lòng thương cảm mới
dẫn dắt con người đạt đến yếu tính không chia cắt của hữu thể.
– Mỗi con người đều có chung một ý
chí sống, nó là bản chất nội tại của bản thể cá nhân. Con đường luân lý để giải
thoát khỏi đau khổ không phải chỉ là từ bỏ sự sống cá nhân, nhưng làm sao để
triệt tiêu chính cái ý chí sống, phủ nhận cái muốn sống thì ý chí cá nhân mới
có thể dứt mình ra khỏi cái gốc chủng loại và từ bỏ mọi hiện hữu trong chủng loại.
Đó là một thứ “tự do sống” đích thực, là giác ngộ, hay là thứ “không còn ý chí
sống”. Đó là trường hợp con người đối diện với cái chết. Sợ chết là một thái độ
sai lạc; can đảm chấp nhận cái chết của mình vì một lý tưởng nào đó thì cũng chỉ
là phủ nhận ý chí sống cá nhân. Chỉ có thái độ bình thản, trở về với cội nguồn
của ý chí sống phổ quát như trước khi có sự hiện hữu vắn vỏi của bản thân mình,
hoặc sau cái chết của cá nhân mình, điều đó mới hóa giải được khổ đau. Trong
trường hợp này, Phật giáo dùng danh từ Niết Bàn để diễn tả (?). Như thế, lòng
thương cảm có thể giúp cho con người vượt qua được giới hạn cá nhân, đạt tới
lòng thương với toàn thể loài người. Ở đây, con người nhận ra tất cả mọi người
và cả vũ trụ đều có cùng một bản chất…
Thật ra hai con đường giải thoát mà
Schopenhauer giới thiệu chỉ là một phương thức đối phó có tính thuần luân lý,
nghĩa là một phương cách tạm bợ, chỉ có tác dụng giới hạn trong từng tình huống
riêng lẻ. Bởi vì sức mạnh của ý chí phổ quát, ý chí bao trùm mọi ý nghĩa và mọi
vận hành của vũ trụ vẫn còn đó như một thách thức ngạo nghễ, thường xuyên đối với
thế đứng quá nhỏ nhoi của con người, cũng như đối với lý trí cá nhân mỗi người.
Như thế, lòng thương cảm mà ông đề cao như một thái độ siêu hình có khả năng
“giải quyết” phận người thật ra cũng là một điều “phi lý”; vì cuối cùng
Schopenhauer vẫn phải nói rằng:
“Các
hành vi cá nhân của chúng ta… hoàn toàn không có tự do… cho nên mọi cá nhân tuyệt
đối không bao giờ có thể làm được điều gì khác hơn điều họ đang làm. Tuy nhiên,
điều quan trọng hơn cả cần ghi nhận, đó là lòng thương cảm của Schopenhauer,
không nhằm tới cá vị với tất cả giá trị cao quí, nhưng là một phương thế nhận
chìm cá vị trong vào một thứ vũ trụ như ý chí phổ quát, mù quáng, vô nghĩa của
chủ nghĩa hư vô”.
– Ta có thể thấy tất cả những tôn
giáo hoặc Triết học lấy vũ trụ luận làm nền tảng sẽ thường đưa tới một lý tưởng
tìm một sự an bình trong sự hòa, thuận theo qui luật chung, để có được một sự
ataraxia, một trạng thái tìm lý tưởng sống an bình như mặt nước hồ thu… Nhưng
đó luôn là giải pháp làm tan loãng ngã vị đọc đáo của con người.
2.
“Thấu cảm” (empathie) như nẻo đường đi vào “câu chuyện đời” của ngã vị
Nếu như sứ điệp về một Thiên Chúa
thương xót là nét đặc trưng của Do Thái-Kitô, thì lòng cảm thông, một khái niệm
gần tương đương với lòng thương xót, đã được không ít các Triết gia đề cập đến,
hoặc ủng hộ hoặc chê bai, Từ Platon, Aristote, Khắc Kỷ,… của thời Thượng Cổ;
cho đến J.J Rouseau, Lessing, đặc biệt là Kant, Schopenhauer. Lòng thương cảm
cũng được đề cập khá nhiều, cách này cách khác, trong Triết học thế kỷ XX và
XXI như M. Buber, các Triết gia thuộc trường phái Francfort, Walter Schulz, E.
Levinas,…. Nói chung, không phải chỉ có Schopenhauer phản đối lại Kant, nhiều
trào lưu Triết học khác, đặc biệt là trào lưu hiện tượng luận cũng không chấp
nhận lối nhìn duy tâm, chủ nghĩa mô hình của Kant, nên tìm một cách thức khác để
giải đáp vấn đề tha nhân. Có lẽ trào lưu hiện tượng luận từ E. Husserl, M.
Scheler và thánh nữ Edith Stein, học trò của Husserl, đã để lại cho Triết học mối
ưu tư về việc lý giải sự hiện hữu của tha nhân. E. Stein viết cuốn Le Problème
de l’ Empathie(vấn đề thấu cảm). “Thấu cảm”, hay “tha-giác”, được coi như khả
năng đặt mình vào hoàn cảnh của tha nhân để có thể hiểu được tha nhân…
Đức Hồng y W.Kasper, tóm kết phần tiếp
cận Triết học với nhận định:
“Để
kết luận, ta có thể xác nhận rằng những phân tích hiện tượng luận mà chúng ta vừa
kể ra đã đi đến điểm mà chúng ta đặt câu hỏi cần phải vượt qua. Ta có thể nói đến
một tiếng “De profundis” (Từ vực thẳm). Vì những bản phác thảo này đưa ra ánh
sáng một khó khăn nan giải – một vấn đề tranh cãi không giải pháp – trong đó tư
tưởng bị khóa lại, và chúng chỉ ra sự cần thiết của một câu trả lời mà suy tư của
con người, theo bản tính của nó, không thể một mình tìm thấy được. Thực sự lòng
thương xót, theo định nghĩa, là một hành động tuyệt đối tự do, có thể tự do chấp
nhận hay từ chối. Khi thực hiện nỗ lực suy tư cuối cùng, có thể buộc phải đặt
ra định đề về lòng thương xót và khẳng định rằng diễn từ Kitô giáo về lòng
thương xót, trong hạt nhân con người của mình, giới thiệu một câu trả lời hữu
ích và đầy đủ ý nghĩa cho tình trạng con người: dù sao điều náy đáng để tranh
luận”.[15]
3.
Vài nét về lòng thương cảm Kitô giáo
a/.
Nẻo đường chiến thắng hư vô của Sách Thánh
Quả thực, nếu ta không chấp nhận được
lập trường của Schopenhauer trong căn bản, thì cũng phải công nhận rằng những
ghi nhận và phân tích của ông về thế giới và con người có một phần sự thật
không nhỏ. Có một sức mạnh nghiệt ngã của một thứ quy luật mù quáng, vô nghĩa,
bi đát, chua cay,… một sức mạnh chỉ tuân theo một nguyên lý túc lý, một thứ
nguyên lý khẳng định tính tất định của vũ trụ, sức mạnh ấy vẫn trói buộc con
người, vẫn xô đẩy mạnh mẽ hành trình đời người… Đó là bóng dáng của hư vô chủ
nghĩa. Quả thực, cuộc sống con người, khi không có Chúa, sẽ bị chi phối do qui
luật “tự nhiên”, vốn là qui luật nghiệt ngã đè bẹp con người… mà chỉ có mối
tương giao ngã vị chân thực, bắt nguồn từ Ngã Vị Thiên Chúa mới có khả năng giải
gỡ.
Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ từ hư vô,
đó là một tác động khởi đầu của một Ngã Vị, Ngã Vị ấy“chiến thắng” cái hư vô.
Thiên Chúa sáng tạo con người giống hình ảnh Thiên Chúa, để con người có thể sống-với
Chúa và nhờ đó mà sống với nhau. Vũ trụ được đặt dưới quyền “đặt tên” của con
người, nghĩa là con người thống trị sự hiện hữu vô nghĩa của thế giới để đưa tất
cả vào tương quan tình nghĩa. Vũ trụ không là gì khác hơn một phương tiện dành
cho loài người có thân xác, để loài người sử dụng như món quà trao tặng nhau
trong yêu thương.
Như thế, với mạc khải Do Thái – Kitô
giáo, không phải “hư vô” chỉ được vượt qua một lần với“biến cố” sáng tạo từ hư
vô của Thiên Chúa, nhưng hư vô còn bị chinh phục trên bình diện ý nghĩa, trong
một vận hành mang tính lịch sử. Ở đây, tính “hư vô” được vượt qua không phải chỉ
bằng một thái độ luân lý để giải quyết từng phận người, hoặc trong một vài tình
huống, nhưng chính là trên bình diện “siêu hình”; không phải cách giải gỡ bằng
đường lối trốn chạy, buông bỏ,… nhưng là một thái độ đối diện cách tích cực. Giải
pháp Kitô giáo, ngược với Schopenhauer, làm nổi bật ngã vị của mỗi cá nhân. Con
người chiến thắng quy luật vô ngã và tất định của vũ trụ khi đưa vũ trụ vào
tương quan ngã vị:
“Muôn
loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của
con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn,
nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có
ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng
với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 4, 19-21).
b/.
Ngã vị trở nên rõ nét trong “cuộc chơi” với một Thiên Chúa Ngã Vị
Khi người mẹ cho con cái bánh, thì sự
trao ban ấy không đơn thuần nằm trong cái bánh ngon hay dở, nhưng cái bánh chỉ
là cách thức người mẹ tỏ bày chính bản thân mình, một bản thân đầy tình thương
đối với đứa con. Tình thương của mẹ mời gọi đứa con, không phải chỉ nhận cái
bánh vì cái bánh ngon mà thôi, nhưng nhận ra tấm lòng của mẹ. Đứa con nào chỉ
vui thích hay buồn phiền vì cái bánh, đứa con ấy có nguy cơ không sống nên người;
vì có thể, trong suốt cả cuộc đời, nó chỉ làm, chỉ học, chỉ hưởng thụ vì những
thứ đồ vật, những thứ qui về cho bản thân mình. Ngược lại, nếu đưa con vui mừng
vì tình thương của mẹ, đứa con đó có cơ may biết sống với ai, biết làm việc cho
ai, biết vui buồn vì ai…
Cũng thế, khi Chúa ban một ơn nào cho
con người, thì điều quan trọng là Chúa mặc khải tình thương của Chúa. Nhưng người
nào chỉ biết đón nhận “ân sủng thụ tạo” mà không biết tìm đến nguồn mạch của ơn
huệ là chính Chúa, thì người ấy bỏ mất nguồn mạch chính yếu của ân sủng, tức là
đón nhận “ân sủng bất thụ tạo”.[16]
Con người được sáng tạo trong tình
thương. Phẩm chất chính yếu của con người yêu thương là có khả năng và khao
khát dính dáng đến ai-khác. Ơn gọi và sứ mạng cao quý của con người là được sống
trong tình yêu của Chúa và tình yêu thương với ai khác, và chính tương quan sống-với-ai
ấy giúp con người càng là chính mình hơn; giống như Triết thuyết của Martin
Buber (1878- 1965), hoặc như cha ông ta nói:
“sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông”. Điều đó có
nghĩa là ngã vị không phải chỉ là một cá nhân đóng kín, nhưng luôn là một ngã vị
như một “vai tuồng”, một thế đứng trước một ngã vị khác. Ngã vị chân chính còn
luôn phải vượt qua sự vật trung gian để đụng chạm được đến “cõi lòng”, hay đúng
hơn là đụng chạm đến “chính cái tôi” của ai khác.
III.
KIẾN GIẢI VỀ TÌNH YÊU VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT KITÔ GIÁO DƯỚI GÓC ĐỘ NGÃ VỊ
Kitô giáo là tôn giáo của tình yêu.
Tình yêu ấy không phải chỉ là một tình cảm vui buồn, thích thú hay hờn giận,…
nhưng đặt nền tảng trên nền tảng siêu hình của hữu thể người, phản ảnh và thông
dự vào chính tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là thứ tình yêu vừa “bảo đảm”được
tính ngôi vị, lại vừa hiệp nhất trọn vẹn trong một bản tính chung. Đóng góp đặc
sắc của truyền thống Do Thái Kitô giáo chính là mối tương giao ngã vị, được
thanh lọc tinh tuyền và được nâng lên tới tầm mức siêu hình. Tình yêu Kitô giáo
không phải chỉ là một tình cảm trong mỗi người, hay một đức tính nhằm hoàn thiện
bản thân, nhưng thiết yếu nhằm thông hiệp với ai-khác trên bình diện ngã vị, hợp
nhất với ai-khác trong một cộng đồng ngôi vị.
1.
Đạo “sống-với-ai”
Trước tiên, ta thấy ý nghĩa sống-với-ai
là ý nghĩa xuyên suốt trong tinh thần Kinh Thánh và đạo lý Giáo Hội. Ta có thể
tóm tắt ý nghĩa sống-với ấy trong hai đoạn văn tiêu biểu:
a/. Ý nghĩa căn bản của phẩm giá con
người trong Kinh Thánh: “Thiên Chúa
sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh
Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27).
Ý nghĩa nền tảng của đoạn Kinh Thánh
này cho thấy vận mạng con người chỉ có thể hoàn thành trọn vẹn khi sống hiệp
thông với Chúa và với nhau:
“Tiếp
nối công trình đào sâu chủ đề “imago Dei” khởi đi từ Công đồng Vatican II,
trong các trang sâu đây, Ủy Ban Thần học Quốc Tế muốn tái xác nhận cái chân lý
về việc con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa để có thể hưởng nhận
việc hiệp thông cá nhân với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và hiệp
thông với nhau trong các Ngài, cũng như để nhân danh Thiên Chúa thực thi trách
nhiệm quản lý thế giới tạo vật. Trong ánh sáng chân lý này, trần gian xuất hiện
không phải như một thứ gì to lớn nhưng vô nghĩa, mà là một nơi chốn được tạo dựng
nhằm vào việc hiệp thông nhân vị”.[17]
b/. Trong Tin Mừng Gioan, chữ “như” có
nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, ý nghĩa căn bản, ý nghĩa Thần học của từ “như” phải
được hiểu, không phải chỉ là một sự tương tự trong so sánh, nhưng có nghĩa là
“nền tảng”, “nguồn gốc”, “phát sinh”. Chẳng hạn:
“Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy. (…) Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
(Ga 15,9.12).
Ở đây, không phải là tình yêu của
Chúa Giêsu đối với các môn đệ dựa theo khuôn mẫu tình yêu của Chúa Cha với Đức
Giêsu; và cũng không phải là tình yêu của con môn đệ với nhau dựa theo khuôn mẫu
của tình yêu Chúa Chúa Giêsu với môn đệ. Nhưng tình yêu của Chúa Cha đổ tràn
trên Đức Giêsu chính là “nền tảng”, “nguồn gốc”, “phát sinh” ra tình yêu của Đức
Giêsu với môn đệ; và tình yêu của Chúa Giêsu với các môn đệ là “nền tảng”, “nguồn
gốc”,“phát sinh” ra tình yêu của các môn đệ với nhau.[18]
2.
Tình yêu Kitô giáo thiết lập một “cộng đồng ngôi vị”[19]
Một ngã vị hướng tới một ngã vị khác
để thiết lập nên một cộng đồng ngôi vị. Nếu chúng ta trở về với một cộng đồng nền
tảng là đời sống gia đình, một khuôn mẫu duy nhất trong các cộng đoàn nhân loại
có được một phẩm tính riêng biệt: đó là một cộng đoàn các ngôi vị. Nơi gia
đình, chúng ta sẽ nhận ra được bóng dáng của ơn cứu độ của Thiên Chúa. Gia đình
thiết yếu là một cộng đồng ngôi vị. Tông Huấn đời sống gia đình viết: “Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được
sinh động cũng do tình yêu, là một cộng đồng các ngôi…”.[20]
Ta có thể hiểu một “cộng đồng ngôi vị”
là nơi mỗi thành viên không chỉ đóng góp tài năng, tiền bạc, đức độ,… nhưng là
đóng góp chính “cái tôi toàn vẹn của mình”, cũng như đón nhận toàn vẹn cái tôi
của ai khác. Ý nghĩa này cho ta thấy một sự khác biệt sâu xa giữa gia đình với
các thứ cộng đồng hay cộng đoàn khác. Nơi xí nghiệp chẳng hạn, ta không đóng
góp cái tôi toàn vẹn và người khác cũng không đón nhận toàn vẹn cái tôi của ta.
Nơi đó người ta chỉ đóng góp công sức, tài năng…để nhận lại những gì lợi ích
cho cái tôi riêng của mình; đó chỉ là những “cộng đồng chức năng”…
Trên trần gian này, chỉ có duy nhất
gia đình mới có được phẩm tính của một “cộng đồng ngôi vị”. Khế ước hôn nhân là
một khế ước mà hai người “trao thân gửi phận” cho nhau, để liên đới với nhau một
cách trọn vẹn. Thật vậy, trong gia đình, các thành viên hiện diện cho nhau với
toàn vẹn cái tôi của mình; được chấp nhận và chấp nhận người khác với toàn vẹn
cái tôi ấy. Mối liên kết ở mức độ “cái tôi” vừa làm cho các thành viên có được
một “quê hương” để sống trọn vẹn bản thân mình, lại vừa có trách nhiệm trọn vẹn
với cả điều tốt và điều xấu nơi cha mẹ, anh chị em của mình; và đây là chính là
nguyên tắc của đời sống yêu thương đích thực:
“Tình
yêu thương vợ chồng bao gồm một toàn thể tính trong đó có đủ mọi yêu tố cấu tạo
nên ngôi vị…”.[21]
Trong cộng đồng ngôi vị ấy, ý nghĩa của
sự tôn trọng phẩm giá mới sáng lên rõ nét và chân thật nhất. Tôn trọng là thái
độ cơ bản để thiết lập tha nhân như một nhân vị và như một chủ thể đủ tư cách để
đi vào cuộc đối thoại, cuộc chơi bình đẳng trong kiếp nhân sinh. Điều quan trọng
là, trong gia đình, ngã vị như một nhân vị căn bản ấy được trao tặng và được chấp
nhận theo luật “cho không”. Nguyên lý căn bản của cộng đồng ngôi vị là sự tặng
không; vì ngôi vị là điều không thể đánh giá, nên không thể trao đổi. Thái độ
tôn trọng, khả năng trao tặng và lãnh nhận cái tôi của nhau như thế chắc chắn
không phải là kết quả của một bài toán đánh giá “nhân cách”, mà chính là sự
chân nhận thứ phẩm giá “bên dưới” nhân cách, đó là chân nhận ngã vị.
“Các
tương quan giữa những phần tử trong cộng đồng gia đình được phát triển dưới sự
thúc đẩy và hướng dẫn của luật “cho không” bằng cách kính trọng và vun trồng
nơi mọi người cũng như nơi mỗi người cái phẩm giá con người như tước hiệu duy
nhất có giá trị, trở nên sự tiếp đón nồng nhiệt, gặp gỡ và đối thoại sẵn sàng
vô vị lợi, quảng đại phục vụ và tương trợ sâu xa”.[22]
Dưới ánh sáng của tình yêu ấy, ta có
thể thấy tình yêu Kitô giáo xây dựng nên một “cộng đồng ngôi vị”, nơi đó mỗi cá
nhân “đóng góp” vào cộng đồng chính bản thân mình và đón nhận bản thân của ai
khác; nơi đó, mỗi người chấp nhận đi vào cuộc phiêu lưu sống-với ai khác trên một
hành trình đầy biến động thăng trầm của lịch sử. Nói cách khác, tình yêu Kitô
giáo đặt nền vững chắc trên sự thông hiệp “bản thân và cuộc đời”, gần giống như
một thứ “trao thân gửi phận” cho nhau (trao tặng bản thân và đồng hành trọn cả
cuộc đời). Vì thế, ta có thể thấy “công thức yêu” Kitô giáo được diễn tả trong
giao ước hôn nhân: tôi nhận anh/em làm chồng/vợ, và hứa giữ lòng chung thủy…
Hơn nữa, kinh nghiệm về tha nhân
trong đời sống gia đình mang những phẩm tính căn bản của vấn đề tha nhân: đó là
một sự trân trọng phẩm giá của mỗi người. Sự trân trọng này làm nên cội nguồn của
thái độ đối thoại, tương trợ, chia sẻ, phục vụ,… theo quy luật “cho không”. Khi
sinh ra, con người đi vào đời với những kinh nghiệm đầu tiên về tha nhân qua đời
sống gia đình. Những kinh nghiệm đầu tiên có thể dài ngắn tùy hoàn cảnh mỗi người,
nhưng cũng tạo nên được một “ánh chớp” lóe sáng soi chiếu hành trình kiếp nhân
sinh. Chính kinh nghiệm về tha nhân trong đời sống gia đình trở nên mẫu mực của
mọi tương quan tha-ngã trong đời sống con người. Theo ngôn ngữ của tông huấn,
kinh nghiệm ấy như “việc thực tập căn bản”, như “gương mẫu và là một khích lệ”
cho các tương quan xã hội:
“Như
vậy, phát huy sự hiệp thông đích thực giữa những ngôi vị có trách nhiệm trong
gia đình trở thành một việc thực tập căn bản và không thể thay thế được cho đời
sống xã hội, một gương mẫu và là một khích lệ cho các tương quan cộng đồng mở rộng,
được đánh dấu bằng các đức tính: kính trọng, cộng bằng, ý thức đối thoại, tình
yêu”.[23]
Như thế, chính những ý nghĩa nhân bản
trong đời sống gia đình là lý tưởng cho xã hội chứ không phải ngược lại. Người
Kitô hữu không được biến gia đình thành một thứ xí nghiệp nhỏ, với quy luật
trao đổi sòng phẳng; ngược lại, cần mở rộng những tương quan nhân bản của gia
đình đến các tương quan xã hội mỗi ngày mỗi rộng lớn và vững chắc hơn. Cũng thế,
tình yêu Kitô giáo có khả năng thanh luyện và nâng cấp tình yêu con người, và
người Kitô hữu cần khám phá tình yêu của Thiên Chúa trên hành trình sống yêu
thương giữa con người với nhau.
Do đó, tình yêu “sống với ai” trong
tinh thần Kitô giáo nhằm xây dựng nên một “cộng đồng ngôi vị”. Bí tích Rửa tội,
là giao ước nền tảng của đời sống đức tin, diễn tả một thực tại nền tảng, Chúa
ban Con Một của Ngài để chết/Phục Sinh cho con người, và người tín hữu thì chết
đi cho con người cũ để sống cuộc đời như một con người mới. Giao ước ấy khiến
cho hai bên “thuộc về nhau”. Ta cũng thấy lối giải thích về “ơn cứu chuộc” hiện
nay đã vượt qua lối trình bày biểu tượng của Kinh Thánh và cách lý giải “đền
thay” của thánh Anselme, cũng như nền Thần học Kinh viện thời Trung Cổ. Thiên
Chúa cứu độ con người là “hòa giải”, tái lập lại “tình thân” giữa con người với
Chúa và con người với nhau, con người trở nên con của Chúa, được “đồng thừa tự
với đức Kitô”,…[24] Ta có thể diễn tả thực tại cứu độ ấy
là một“cộng đồng ngôi vị”, trong đó các ngôi vị “thuộc về nhau”.
Tình thương Kitô giáo xây dựng nên một
sự hiệp thông “móng nền” chứ không phải chỉ là sự ăn khớp “kèo cột”; tương tự
như anh em với nhau, dù có khác tính tính tình, cãi vã nhau thường xuyên, nhưng
vẫn còn thông hiệp trong “móng nền”, “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Trong
khi tình nghĩa chúng ta với bạn bè, với “người ngoài” thì thiết yếu phải xây dựng
trên sự ăn khớp của tính tình, của phương thức làm việc… mà thiếu nhưng yếu tố ấy
thì“cộng đồng chức năng” sẽ sụp đổ.
3.
Ngã vị (persona) hay phẩm cách (personalitas)?
Con người chỉ trở nên chính mình
trong tương quan, và thái độ tương quan ấy làm nên phẩm cách của một con người.
Con người như một ngã vị (persona) thiết yếu phải thể hiện chính mình trong
nhân cách (personnalitas). Bình thường, người ta nhận ra một người “có nhân
cách” là người có đức độ hoặc tài năng. Thế nhưng, xét trên bình diện siêu
hình, “nhân cách”hay “đức độ” hay “tài năng”… vẫn là điều con người “có” chứ
không phải là điều con người“là”. Tài năng, đức độ… vẫn có thể “bay đi mất” mà
cái tôi trần trụi thì vẫn luôn ở lại đó. Trong khi Triết học nói đến ngã vị như
một cái tôi cá thể hiện hữu ấy (subsistens distinctum) thì các khoa tâm lý, xã
hội lại chỉ có thể bàn đến nhân cách (personnalitas) của con người. Trong đời sống
xã hội, trong tương quan ngã vị của con người với nhau, người ta thường nhìn nhận
một con người qua nhân cách của người ấy. Người ta kính kẻ đức độ, người ta phục
người có tài năng, hoặc người ta xum xoe với người đẹp, người có tiền, có địa vị…
Điều ấy nếu được đẩy xa một chút nữa thôi, người ta sẽ rớt vào tình trạng, hoặc
chủ trương hoặc vô tình, nhìn nhận xã hội, hoặc nhà nước là chủ thể bạn tặng phẩm
giá cho cá nhân con người,…
Điều éo le của kiếp người là, trên
bình diện nhân cách, ai cũng biết rằng con người không có điểm xuất phát bằng
nhau, thế mà mỗi người lại cứ phải chạy đua trên cùng một đường đua, với những
chuẩn mực của mức đến như nhau. Có người sinh ra đã nhận lãnh biết bao ưu thế,
và có người, ngay khi sinh ra, đã chịu biết bao thiệt thòi,… mà thiệt thòi lớn
nhất là chính ngã vị của họ không được tôn trọng xứng đáng.
Chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt
giữa một nền luân lý đặt nền trên nhân cách và một nền tảng siêu hình đặt nền
trên ngã vị, bằng cách so sánh hai chiều hướng khác nhau của tình yêu, tình yêu
con người và tình yêu Thiên Chúa:
– Tình yêu con người khởi đi từ việc
đón nhận cái hay cái tốt nơi ai khác (1). Rồi khi đã gắn bó với nhau qua một
quá trình, người ta thấy rõ được “ai khác” ấy, không phải chỉ thấy những điều
hay điều tốt mà còn đầy những điều xấu, những điều tệ hại, người ta được mời gọi
để trung tín với tình yêu vì đã “đồng hội đồng thuyền” với nhau (2). Sau cùng,
đến lúc nào đó, ngay cả khi “ai khác” ấy đã mất tất cả những phẩm tính tốt đẹp,
nhân cách cũng chẳng còn gì, mà người ta vẫn đón nhận như là “của mình”, thuộc
về mình, thì đó mới là mức độ của tình yêu quảng đại và tốt đẹp nhất (3).
– Ngược lại, tình yêu của Thiên Chúa
đối với con ngưởi lại khởi đi từ việc chấp nhận “ai khác”một cách vô điều kiện,
hoặc hơn nữa là một tình yêu tha thứ. Chúa thương ta ngay khi ta còn là tội
nhân (Xc. Rm 5,8) (3). Rồi Thiên Chúa sẵn sàng đồng hành, liên lụy với con người
trong hành trình cuộc đời một cách “trung tín” (2). Cuối cùng, chính tình yêu tặng-không
của Thiên Chúa và bề dày nghĩa tình của Chúa với ta trong dòng lịch sử mới làm
nẩy sinh những điều hay điều tốt nơi bản thân ta (1).
Chính chiều hướng “ngược ngạo” của
tình yêu Thiên Chúa làm nổi giận những người Do Thái ưu tuyển. Điều “ngược ngạo”
là tình yêu của Thiên Chúa gắn phẩm giá một con người, với chính ngã vị
(persona), trong khi tình yêu con người thì luôn nghiêng về nhân
cách(personalitas). Con đường cứu độ của Thiên Chúa không phải được mở ra trên
nóc nhà, và chỉ có những người ưu tuyển mới có thể leo lên được, nhưng là con
đường hầm ở cũng đáy cuộc đời để ai cùng có thể “chui” qua được. Thiên Chúa cứu
độ con người không phải bằng cách “nắm tóc”, vì nhiều người nghèo của Chúa cũng
chẳng có tóc; nhưng Thiên Chúa cứu độ con người bằng cách nâng từ chân, và cả
nhưng người yếu kém nhất về nhân cách thì cũng có thể được cứu độ. Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Mặc dù người
con này đã phung phí hết phần gia sản của hắn, tuy nhiên, nhân tính của hắn vẫn
còn nguyên”.[25]
Trong một “cộng đồng ngôi vị”, người
ta không được quyền đặt điều kiện tiên quyết về nhân cách, theo kiểu con có
ngoan thì mẹ mới nhận làm con; nhưng chính người mẹ chân chính phải liên đới,
liên lụy với đứa con để giúp nó thăng tiến nhân cách. Tương quan vợ chồng với
nhau cũng vậy, anh chị em với nhau cũng vậy,… điều chính yếu là đón nhận và
trân trọng một ngã vị “đơn thuần”, và chính điều ấy mới là nền tảng để giúp mỗi
thành viên được sống tốt hơn. Có lẽ có khá nhiều tất xấu của con người phát xuất
từ một phản ứng vô thức, do ngã vị của mình đã không được chấp nhận. Một ông
cha xứ hiểu rằng mình không được con chiên quí mến, sẽ thường lấy luật lệ cứng
nhắc để điều hành sinh hoạt giáo xứ…
Như thế, yêu thương chân chính là đón
nhận bản thân và liên đới, hoặc liên lụy với cuộc đời của ai khác. Tình yêu của
Thiên Chúa “đảm nhận” vấn đề nhân cách của người Kitô hữu chứ không phải đòi hỏi
nhân cách tốt như điều kiện căn bản. Thiên Chúa xét xử công bằng không phải là
một thứ chấm bài thi nhân cách của con người, nhưng là thiết yêu là làm sáng tỏ
thái độ của con người đối với hồng ân được đón nhận vào cộng đồng ngôi vị của
Thiên Chúa. Tình yêu thương của người tín hữu cũng vậy. Khi người Kitô hữu “yêu
tha nhân vì Chúa”, thì đó không phải chỉ là một mệnh lệnh luân lý mà là nhận ra
một thực tại: nhờ Chúa, ta nhận ra tha nhân là người anh em của tôi. Ngược lại,
thiếu nền tảng siêu hình ấy, người vô thần đương nhiên phải chọn lập trường “bạn
ra bạn, thù ra thù”.
4.
Lòng thương xót Kitô giáo như một “khả
năng chạm đến ngôi vị”
Trong đời sống thường ngày, con người
luôn bị thúc đẩy do thái độ “ăn gian”. Con người luôn sợ mình không được yêu
chân thật, mình không được chấp nhận từ chính bản thân, và không được liên lụy
trong cả cuộc đời. Nỗi sợ ấy khiến cho con người luôn phải “trang điểm”cho bản
thân và cuộc đời mình bằng những thứ “sự vật”. Con người muốn khẳng định mình bằng
tài năng, bằng địa vị, bằng sắc đẹp, bằng tiền bạc và thậm chí bằng đức độ,… để
có thể được người khác chấp nhận. Thái độ “ăn gian” là khi người ta lấy những
“sự vật” để thay thế cho bản ngã đích thực; lấy những điều thuộc “chức năng” để
làm cho “phẩm giá” của mình được ngon lành hơn… Thái độ ăn gian chính là cám dỗ
có thể chinh phục được người khác bằng “sự vật”, thậm chí nhằm trao đổi hoặc
mua bán tình yêu bằng một thứ “sự vật” nào đó; theo kiểu “Tao đẹp trai, học giỏi, con nhà giầu… tao muốn đứa con gái nào chẳng
được…”. Gia kêu đã quá tuyệt vời khi không sử dụng những ưu thế của mình,
thế lực và tiền bạc, để giải quyết mong ước gặp Đức Giêsu, nhưng ông đến với
Chúa trong một ngã vị trần trụi, một con người lùn, leo lên cây như một đức trẻ
(Xc. Lc 19,1-10).
Thái độ ăn gian đưa đến những thứ
tương giao giả tạo, tương giao có tính xã giao, tương giao có tính thực dụng,
tương giao có tính lợi dụng hoặc tương giao có tính gây hấn đe dọa… Khi người
ta chi biết tôn trọng người giầu mà khinh chê kẻ nghèo, sợ người giỏi mà coi
thường kẻ dốt, khúm núm trước người có địa vị mà lại lên mặt với dân đen; khi
người ta tặng quà cáp để được lợi lộc, khi người ta dùng sức mạnh của đồng tiền
hay vũ lực để bắt người khác làm theo ý mình… Một điều vô cùng khó của con người,
đó là khả năng chơi với nhau ở mức độ phẩm giá căn bản; mà điều này chỉ có thể
có được khi người ta công nhận mọi sự đều là hồng ân. Con người đã được lãnh nhận
nhưng-không chính bản thân và cuộc đời của mình. Phẩm giá của con người không
do chính mình, không do xã hội cấp phát theo một số điều kiện nào đó… “Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác
đâu? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh
vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7).
Trong thực tế lịch sử, khi nào những
thứ trang điểm rơi rụng thì người ta lại có cơ may nhận ra nét“tôn nghiêm” căn
cản của ngã vị con người: khi đối diện với một xác người chết, khi đối diện với
một người nô lệ, khi gặp thấy một ai đó sống còn “không ra người”… Khi chạm tới
một ngã vị trần trụi, người ta có cơ may tìm được thái độ tôn trọng chân thật
nhất, tôn trọng tha nhân như là đối tác “ngang hàng”. Hơn nữa, chạm vào một ngã
vị trần trụi, con người còn có cơ may nghe được lời cầu khẩn thâm trầm nhất của
một ngã vị, lời cầu khẩn“có ai chấp nhận bản thân và cuộc đời của tôi không?”…
Ngã vị không phải là “duy ngã độc tôn” (solipsisme hoặc egotisme), nhưng luôn
luôn là một ngã vị trong tương quan với một ngã vị khác, đó chính là cái
nghèo-tôn nghiêm căn bản, là tiếng kêu căn bản vươn tới lòng thương xót chân thực.
Lòng thương xót, ở mức độ siêu hình căn bản của phận người, có lẽ không phải chỉ
là một tâm tình đối với“nỗi khổ (nhất thời) của ai đó” (lòng thương hại), nhưng
là nhận ra “một ai đó chân thực qua nỗi
khổ của người ấy”. Lòng thương xót là khả năng đập phá tất cả những thứ
“trang điểm”, vượt qua lớp vỏ của cái thuộc chức năng để khám phá ra một ngã vị
vốn tự bản chất là“nghèo-tôn nghiêm”, để nhận ra “âm tính” của một ngã vị, vốn
luôn cần được chấp nhận đơn thuần từ một ngã vị khác. Chính vì thế mà tình yêu
không thể là sự trao đổi, nhưng thiết yếu phải là trao tặng. Tình yêu, là tác động
như một ân ban trong tự do của một ngã vị, chính là cứu cánh của đời người; và
điều gì là cứu cánh thì cũng là nguyên lý hướng dẫn hành động của con người.
Trong ánh sáng mặc khải Kitô giáo, ta hiểu được nguyên lý căn bản của Kitô giáo
chỉ có thể là tình yêu chân chính như là lòng thương xót. Nếu như lòng thương
xót là phẩm tính cao quí nhất của Thiên Chúa, là sứ vụ chính yếu của Đức Giêsu
(Lc 4, 4-22), thì lời cầu nguyện chân chính nhất chỉ có thể là lời cầu nguyện của
người nghèo, lời cầu nguyện dai dẳng và lì lợm (Xc. Lc 18, 1-8…), lời cầu nguyện:
“lạy Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi” (Lc 18, 39…). Đức Gioan Phaolô II,
trong Thông điệp Thiên Chúa Giầu Lòng Từ Bi Thương Xót, nói rằng: có một danh
hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu (từ bi thương xót).
“Vì
lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là danh hiệu thứ
hai của tình yêu”.[26]
Có phải không lòng thương xót Kitô
giáo chính là nét duyên chân thật, lóng lánh, lung linh ẩn sau mọi cá tính, mọi
tài năng, mọi thái độ luân lý của mỗi người?
TẠM
KẾT
1/.
Để phác họa một cách khái quát, xin tạm dùng một hình ảnh: Một đứa bé lạc giữa chợ…
– Có người không thương gì cả: mày
mang xui xẻo cho tao… đi chỗ khác đi.
– Có người tìm ataraxia: cho mày 10
ngàn mua bánh mì, rồi đi chỗ khác để tao làm ăn.
– Có người thương hại: thôi để tao đưa
mày tới đồn cảnh sát, để người ta đưa mày vào viện mồ côi.
– Có người lại thấy: ôi tao cũng mồ
côi như mày; mà ai chẳng mồ côi; rồi bố mẹ mày cũng có lúc phải chết như bố mẹ
tao thôi. Buồn làm gì. Đó là thái độ của Schopenhauer.
– Có người thương xót: thôi về nhà
tao, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo…
2/.
Khi không nhận ra được mức độ siêu hình của tình yêu Kitô giáo, đời sống Giáo Hội vẫn không thể diễn
tả được thứ “linh đạo của người nghèo”, vốn
là đường nét căn bản của sứ điệp Nước Trời. Đời sống của Giáo hội, nói chung,
không phải là không quan tâm giúp đỡ những người nghèo, nhưng đó chỉ là “linh đạo cho người nghèo”, và đó là những
hoạt động bác ái mang tính luân lý thuần túy. Phải chăng vì không đụng đến mức
độ siêu hình của tình yêu và lòng thương xót Kitô giáo nên, khi ra ngoài lãnh vực
hoạt động bác ái, thì những nguyên lý danh giá, nguyên lý đề cao người ưu tuyển,
nguyên lý luân lý thuần túy… lại chi phối cách mạnh mẽ. Chẳng hạn: trước khi
ban bí tích Rửa Tội cho người lớn thì nghi thức phụng vụ đã đòi hỏi thứ điều kiện
“xứng đáng”: “…vậy ông (bà,anh,chị) đã thực
thi giáo huấn của Chúa, tuân giữ giới răn của Người, sống tình huynh đệ và chăm
chỉ cầu nguyện để xứng đáng trở thành Kitô hữu chưa?”. Cũng thế, người ta
thường đào tạo người Kitô hữu hoặc đào tạo tu sĩ bằng cách xây dựng nhân cách,
mà lại quên giúp người thụ huấn hiểu ra “khả năng” đón nhận một ngã vị đơn thuần.
Dù có loay hoay đạo nghĩa thế nào, người Kitô hữu, đặc biệt là các đấng bậc, vẫn
cứ xử sự như người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết
của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc
15,30).
Vì thế, tính “đảo ngược” của Tin Mừng
Đức Giêsu lại thường bị “đảo xuôi” theo cách nghĩ và cách ứng xử quen thuộc của
xã hội con người.
THƯ
TỊCH
1. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
Thông Điệp Dives in Misericordia, Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót, ngày
30-11-1980.
2. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
Tông Huấn “Familiaris Consortio”, về Gia Đình, ngày 22-11-1981.
3. Hồng y Walter Kasper, Lòng Thương
Xót, Khái niệm căn bản của Tin Mừng và chìa khóa cho đời sống Kitô hữu.
4. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP., Đời
Sống Tâm Linh, tập 8.
5. Arthur Schopenhauer, Siêu Hình
Tình Yêu, Siêu Hình Sự Chết, Hoàng Thiên Nguyễn dịch, Văn Học, 2006.
6. Ivan Gobry, Le Vocabulaire grec de
la philosophie, ellipses, 2002.
7.
Alain Roger, Le Vocabulaire de Schopenhauer, Ellipses 1999.
Lm.
Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP
Nguồn
catechesis |
Việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu có
khác với việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót không?
Chúng
ta đang ở trong Tháng Sáu, được dành để kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Từ ngày 23
tháng 5 năm 2000, được sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thánh
Bộ Phụng Tự đã ra quyết định chọn Chúa Nhật II Phục Sinh là “Chúa Nhật kính
Lòng Chúa Xót Thương”; Vậy hai việc tôn kính này có gì giống nhau và có gì khác
nhau?
Việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu có
khác với việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót không?
Tôi
không biết nên bắt đầu bằng cách nêu bật những điểm giống nhau hay là những điểm
khác nhau trước. Thật ra thì nhiều điểm khác nhau không có nghĩa là đối nghịch
nhau, nhưng bổ túc cho nhau mà thôi. Chúng ta có thể bắt đầu bằng những điều tổng
quát giống nhau, rồi sẽ dần dần bước sang những điểm khác nhau.
Nói
một cách tổng quát, chúng ta cần phải nhấn mạnh đó là: “Không có gì khác nhau hết”,
bởi vì cả hai đều quy về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã mạc khải tình thương Thiên
Chúa đối với loài người chúng ta, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng chính việc
hiến mạng sống vì chúng ta; cả hai đều đề cao tình yêu của Thiên Chúa đối với
chúng ta. Thật vậy, việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và việc tôn sùng lòng
Thương xót Chúa đều dành cho cũng một Chúa Giêsu (chứ không phải là hai Chúa
khác nhau), và cả hai đều nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Thánh Tâm (tức là trái tim) là biểu hiệu của tình yêu; và lòng thương xót hẳn
nhiên là nói đến tình yêu rồi.
Chúng
ta đừng bao giờ quên rằng, tất cả các việc tôn kính đều nhắm đến một Ngôi Vị, một
Chủ Thể, chứ không bao giờ dừng lại ở hình thức hoặc tước hiệu bên ngoài. Chẳng
hạn như khi tôn kính Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Carmel, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ
Lộ Đức, Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Lavang, Trái Tim Đức Mẹ,.v.v… thì tất cả đều nhắm
đến bản thân của Đức Maria, thân mẫu của Chúa Cứu Thế và của Hội Thánh. Chúng
ta đừng nên dừng lại ở tước hiệu, nhưng hãy nhìn đến Đức Mẹ, để bày tỏ lòng
kính mến cũng như bắt chước gương các nhân đức.
Trở
lại với đề tài mà chúng ta đang bàn, việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và việc
tôn kính lòng thương xót của Chúa đều hướng đến Chúa Giêsu. Thế nhưng, chính
trong sự đồng nhất này mà ta thấy có đôi nét khác biệt. Những khác biệt đó là
gì?
Sự
khác biệt thứ nhất đó là về thời gian. Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu đã bắt
nguồn từ thời các Giáo phụ, nghĩa là từ ngàn năm thứ nhất của Kitô giáo. Nổi bật
là các Giáo phụ như: Origène, Augustino,…
Sang
thế kỷ XII, lòng sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu được các thần học gia bàn đến
trong những tác phẩm thần học, chẳng hạn như: Thánh Alberto Cả, chân phúc Henri
Suso Dòng Đaminh,... Trong số những nhà thần bí nói đến Thánh Tâm vào thời kỳ ấy,
nổi tiếng nhất là thánh nữ Gertrude, sinh năm 1256 và qua đời năm 1301, là đan
sĩ Dòng Xitô thuộc đan viện Hefta bên Đức, với tác phẩm “Sứ giả của lòng thương
xót Chúa”.
Sang
thế kỷ XIV, chúng ta thấy thánh nữ Catarina Siena đã viết rất nhiều về lòng
thương xót của Thiên Chúa, nhưng thánh nữ không gắn với việc tôn sùng Trái Tim;
có chăng là thánh nữ nhận thấy biểu tượng của lòng thương xót ở nơi bửu huyết của
Chúa.
Thế
nhưng, việc sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế
kỷ XVII do ảnh hưởng của thánh nữ Margarita Maria Alacoque (1647-1690). Hầu hết
những bức ảnh vẽ Thánh Tâm Chúa Giêsu được trưng bày trong các nhà thờ, nhà
nguyện Công Giáo đều dựa theo phong trào mà thánh nữ Margarita Margarita
Alacoque cổ động. Thánh nữ là một tu sĩ Dòng Thăm Viếng. Vào thời thánh nữ
Margarita, Giáo Hội bị đe doạ bởi chủ nghĩa Giansenit, trình bày Thiên Chúa như
là một Đấng Công thẳng đáng sợ; Thánh Tâm Chúa Giêsu nhắc nhở con người rằng
Thiên Chúa là tình yêu, chứ không chỉ là Đấng thẩm phán
Tóm
lại, việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa được phổ biến kể từ thế kỷ XVII là nhờ bởi
hai vị thánh nổi tiếng, đó là:
-
Thánh Jean Eudes, linh mục, sinh năm 1601 và qua đời năm 1680, đã thành lập hai
Dòng tu, một nam một nữ, mang tên là Hai Trái tim (nghĩa là: Trái tim Chúa
Giêsu và Trái tim Đức Mẹ), cũng như cổ động việc thiết lập một lễ phụng vụ kính
Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nên biết là, theo thánh Jean Eudes, trái tim là trung tâm
điểm của con người, vì thế tượng trưng cho chính bản thân Chúa Giêsu, nơi gặp gỡ
tình yêu với Chúa Cha, với nhân loại, với vũ trụ
-
Vị thánh thứ hai của thế kỷ XVII là thánh nữ Margherita Maria Alacoque thuộc
Dòng Thăm Viếng, nhưng các văn phẩm được phổ biến nhờ vị linh hướng là thánh
Claude de la Colombière. Người ta thường coi hai vị thánh này là những cổ động
viên cho lòng tôn kính Thánh Tâm trong toàn thể Hội Thánh, được các Đức Giáo
Hoàng ủng hộ, không những qua việc thiết lập lễ phụng vụ, mà còn qua nhiều văn
kiện, quan trọng nhất là Đức Giáo Hoàng Piô XII với Thông điệp Haurietis aquas
năm 1956.
Còn lòng sùng kính Lòng Thương Xót
Chúa bắt nguồn từ khi nào?
Lòng
thương xót của Chúa tuy đã được các nhà thần học bàn đến từ lâu, nhưng trở thành
phổ cập vào giữa thế kỷ thứ XX, do ảnh hưởng của thánh nữ Faustina Kowalska
(1905-1938). Vào thời thánh nữ Faustina, nhân loại đang trải qua những cuộc tàn
phá do những khủng hoảng chính trị gây ra bởi những cuộc chiến tranh và những
chủ nghĩa độc tài; lòng thương xót Chúa nhắc nhở con người hãy tín thác vào
Thiên Chúa, đừng sợ hãi, đừng thất vọng.
Thế
nên, khi nói đến việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót, là chúng ta muốn nói đến
hình thức tôn sùng được quảng bá do bởi thánh nữ Faustina Kowalska. Vị thánh
này sống vào tiền bán thế kỷ XX, sinh năm 1905 và qua đời năm 1938. Chị cũng là
một người tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu.
Trong
quyển Nhật ký, chị ghi lại lời tâm sự của Chúa như thế này: “Này con của Ta, hãy biết rằng, trái tim của
Ta là lòng thương xót. Từ biển thương xót này mà các ân sủng trào ra khắp thế
giới. Không linh hồn đến gần Ta mà không được an ủi đi ra về. Mọi nỗi lầm than
đều được chôn vùi trong đáy của lòng thương xót của Ta, và mọi ơn huệ thánh hóa
đều trào ra từ suối này”. Trong một đoạn khác của quyển Nhật ký, thánh nữ
đã bộc lộ tâm tình thờ lạy Trái tim Chúa Giêsu ở trong bí tích Thánh Thể với những
lời như sau: “Ôi bánh thánh hằng sống, là
sức mạnh duy nhất của con, nguồn mạch của tình yêu và lòng thương xót, xin hãy
ôm ấp thế giới và nâng đỡ các linh hồn yếu đuối. Ôi, thật là giây phút diễm
phúc khi Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta quả tim đầy lòng thương xót của Người”.
Như
vậy, đối tượng của việc tôn kính Thánh Tâm và của việc tôn kính Lòng Chúa
Thương Xót cũng là một, đó là tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại.
Trên
đây là những sự giống nhau và khác nhau nhìn cách tổng quát; vậy những gì còn lại
chỉ là điều nhỏ nhặt hay sao?
Tôi
không dám nói rằng, những gì còn lại đều là tiểu tiết, bởi vì khó mà lượng giá
tầm quan trọng; nhưng mà chúng ta hãy tiếp tục theo dõi những tương đồng và
khác biệt.
Một
điểm tương đồng đáng chúng ta lưu ý, là hai người cổ động của hai việc tôn sùng
này đều là nữ tu,và tương đối trẻ: thánh nữ Margarita qua đời lúc 43 tuổi,
thánh nữ Faustina qua đời lúc 33 tuổi. Dĩ nhiên, cả hai trường hợp này đều là mặc
khải tư, nghĩa là không mang lại chân lý nào mới cho kho tàng đức tin của Giáo
Hội, nhưng chỉ đào sâu thêm vài khía cạnh của đức tin, theo như sách Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo đã khẳng định ở số 67.
Như
vừa nói trên đây, cả hai nữ tu này đều trùng hợp ở chỗ tôn kính tình yêu của
Chúa Giêsu được biểu lộ qua Thánh Tâm. Tuy nhiên, việc tôn kính được biểu lộ
qua những tấm ảnh mà các vị muốn cổ động. Đến đây, ta thấy có sự khác biệt
trong cách diễn tả những hình ảnh đó:
-
Hình ảnh Trái Tim Chúa theo thánh nữ Margarita chỉ cho ta thấy, một trái tim bừng
rực lửa mến chứ không có toàn thể chân dung của Chúa. Trái Tim ấy có một vòng
gai quấn chung quanh, nhắc đến cuộc khổ nạn của Chúa. Nói cách khác, Trái Tim
Chúa Giêsu gợi ra cuộc khổ nạn của Chúa: vì yêu thương chúng ta, Ngài đã đổ máu
mình ra cho chúng ta.
-
Đang khi đó, bức tranh mà thánh nữ Faustina được lệnh quảng bá thì trình bày
toàn thân Chúa Giêsu, và là Chúa Giêsu Phục Sinh. Thật vậy, Chúa Giêsu mặc áo
dài trắng (có lẽ vừa tượng trưng cho phẩm phục tư tế, vừa tượng trưng cho y phục
của thân thể vinh hiển rạng ngời), và trong tư thế đứng, giống như khi hiện ra
cho các môn đệ sau khi sống lại.
Như vậy, khi tôn kính Thánh Tâm Chúa
Giêsu là chúng ta tôn kính tình yêu của Thiên Chúa phải không?
Chắc
chắn rồi. Điều này đã được giải thích bởi các nhà thần học từ thời Trung cổ
cũng như trong các văn kiện của các Giáo Hoàng thời cận đại. Chúng ta có thể
trưng dẫn một đoạn văn điển hình của Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo viết như
sau: “Thánh Tâm Chúa Giêsu, chịu đâm thâu bởi tội lỗi của chúng ta và vì ơn cứu
độ cho chúng ta, được coi như là dấu chỉ chính yếu và biểu tượng của tình yêu
mà Chúa Cứu chuộc không ngừng yêu thương Thiên Phụ và tất cả mọi chúng sinh”.[27] Trong lễ trọng kính Thánh
Tâm Chúa Giêsu, các bản văn Kinh Thánh thường được trích dẫn hơn cả là cảnh
Chúa Giêsu chết trên thập giá, đã bị một tên lính đâm thâu, từ đó vọt ra máu và
nước (x. Ga 19,34).
Nói như vậy, thì việc tôn kính lòng
Chúa Thương Xót không thêm điều gì mới hay sao?
Lúc
nãy, tôi đã lược qua lịch sử lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, từ các nhà thần
học và thần bí thế kỷ XIII, đến các hai vị thánh thế kỷ XVII, và các văn kiện
Giáo Hoàng trong thế kỷ XX. Các tác phẩm ấy không lặp đi lặp lại những điều đã
biết, nhưng đào sâu hơn các khía cạnh súc tích của tình yêu Thiên Chúa. Trong bối
cảnh này, chúng ta phải nhìn nhận rằng, thánh nữ Faustina cũng góp phần vào việc
giải thích sâu xa hơn về lòng thương xót của Chúa. Chúng ta không có giờ để đi
sâu vào việc nghiên cứu tác phẩm của thánh nữ, và chỉ cần nhìn ngắm bức tranh về
lòng Chúa thương xót thì đủ rõ.
Qua
bức tranh đó, chúng ta có cảm tưởng là việc tôn kính này đi với mầu nhiệm Phục
Sinh. Trên thực tế, lễ kính lòng thương xót Chúa được mừng vào Chúa Nhật thứ II
Phục Sinh. Đang khi đó, những bức tranh cổ điển trưng bày Thánh Tâm Chúa thì vẽ
bức tranh một trái tim bừng cháy lửa, và chung quanh có quấn vòng gai. Điều này
đưa chúng ta đến cuộc Thương khó của Chúa Giêsu. Như vậy, ta có thể nói rằng, hai
việc tôn kính trình bày hai khía cạnh của mầu nhiệm Vượt qua: một bên là thập
giá, bên kia là cuộc phục sinh.
Ngoài
ra, tôi nghĩ rằng, việc tôn kính lòng Chúa thương xót bổ khuyết cho vài điểm
xem ra hơi tiêu cực của việc tôn kính Thánh Tâm Chúa. Thật vậy, trong lòng đạo
đức bình dân, người ta cổ động lòng tôn kính Thánh Tâm với những lời kêu gọi của
Chúa rất thảm thiết: “Này đây trái tim đã
quá yêu thương loài người, nhưng luôn luôn bị phụ bạc”; vì thế, các tín hữu
hãy đền đáp lại tình yêu của Chúa qua việc đền tạ. Cách hình dung như vậy có vẻ
hạ giá tình yêu của Chúa, ra như tình yêu này còn tính toán: yêu để được yêu lại;
nếu không thì tủi! Tình yêu của Chúa đâu phải như thế! Đang khi đó, bức tranh về
lòng thương xót của Chúa cho thấy những dòng suối hồng ân tuôn ra tràn trề từ cạnh
sườn của Chúa Giêsu. Ở đây, con người được kêu gọi hãy mở rộng cửa để đón nhận
những hồng ân của Chúa. Dĩ nhiên, nếu ta không đón nhận thì ta chịu thiệt thòi
mà thôi, nhưng Thiên Chúa không ngừng ban phát ân sủng. Vì thế, ở đây, lời kêu
gọi không nhấn mạnh đến việc con người hãy đáp trả tình yêu của Chúa, cho bằng
hãy tin tưởng đến gần Chúa, dù mình tội lỗi đến mấy đi chăng nữa.
Như vậy, có phải là trong việc tôn
sùng Thánh Tâm, Chúa Giêsu đòi hỏi con người phải thi hành một nghĩa vụ, còn
trong việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, con người chỉ cần mở cửa lòng để đón
nhận ân huệ của Chúa không?
Tôi
nghĩ rằng sự so sánh như vậy cũng có lý phần nào. Tuy nhiên, không phải là việc
tôn sùng lòng thương xót Chúa không đặt ra một nghĩa vụ nào.
-
Nghĩa vụ thứ nhất là hãy tín thác vào Chúa;
điều này xem ra không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là vào thời buổi hôm nay,
con người tự hào về khả năng của mình, vào những thành tựu của khoa học kỹ thuật,
để rồi rơi vào tuyệt vọng khi khoa học không mang lại kết quả mong muốn.
-
Nghĩa vụ thứ hai cũng không đơn giản, là hãy tỏ lòng thương xót đối với đồng loại.
Như
vậy, thiết tưởng, thay vì sử dụng hai khái niệm “nghĩa vụ” và “ân huệ” để đối
chiếu hai hình thức tôn sùng, chúng ta hãy dùng hai khái niệm khác: việc tôn
sùng Thánh Tâm nhắc nhở những bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa; còn việc
tôn sùng Lòng Chúa Thương xót nhắc nhở những bổn phận của chúng ta đối với tha
nhân.
Trên đây, Cha đã nhắc đến bức tranh cổ
võ lòng sùng kính Chúa Thương Xót của thánh nữ Faustina, vậy Cha cho biết thêm
ý nghĩa về bức tranh này thế nào?
Trước
hết, tôi cần lưu ý một lần nữa rằng: Việc tôn kính Thánh Tâm đã là tôn kính
Lòng Chúa Thương Xót rồi. Vì thế, trong bức ảnh nguyên bản trình bày về Lòng
Chúa Thương Xót, thì không vẽ hình Trái Tim; nhưng ở vài nơi, một số những họa
sĩ đã thêm vào.
Đặc
trưng của bức ảnh Lòng Chúa Thương Xót nằm ở chỗ hai tia sáng màu đỏ và trắng
nhạt, phát ra từ cạnh sườn bên trái của Chúa Giêsu. Như tôi đã nói ở trên, ý tưởng
này được gợi lên từ đoạn văn Tin mừng thánh Gioan (Ga 19,34): một người lính lấy
giáo đâm vào cạnh sườn của Đức Giêsu, tức thì, máu cùng nước chảy ra. Bản văn của
Tin mừng chỉ nói là máu cùng nước chảy ra, nhưng bức tranh của thánh nữ
Faustina đã tô màu thành hai tia sáng màu đỏ và trắng.
Thực
ra, từ thời các Giáo phụ, quang cảnh này đã được giải thích theo nhiều nghĩa.
-
Một nghĩa trực tiếp hơn cả là máu và nước là biểu tượng của hai Bí tích Thánh
Thể và Thánh Tẩy.
-
Một nghĩa xa hơn nữa là quang cảnh này được liên kết với việc thành lập Hội
Thánh. Cũng như xưa kia, bà Eva được dựng nên từ cạnh sườn ông Adam thiếp ngủ,
thì nay Hội Thánh là bà Eva mới cũng được dựng nên từ cạnh sườn của Đức Giêsu
là Adam mới thiếp ngủ trên thập giá.
Nói như vậy, bức tranh của thánh nữ
Faustina gợi lên việc Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá hay việc Chúa Phục
Sinh?
Cả
hai. Đoạn văn vừa trích dẫn thuật lại cảnh Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá.
Nhưng khi thuật lại việc Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, tám ngày sau
khi sống lại, thì thánh Gioan cũng nói đến việc Chúa bảo ông Tôma: “Hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Ta có thể nói được, là việc
mời gọi thánh Tôma cũng là lời mời gọi tất cả chúng ta hãy tiến lại gần Chúa,
và hãy tín thác vào Chúa. Như vậy bức họa của thánh nữ Faustina vừa gợi lên ý
tưởng Tử Nạn, vừa gợi lên ý tưởng Phục Sinh; nói tắt là gợi lên mầu nhiệm Vượt
Qua. Lễ kính Lòng Chúa Thương Xót được mừng vào Chúa Nhật Bát Nhật Phục Sinh,
còn lễ Thánh Tâm được mừng vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Thánh Chúa.
Và bức họa Lòng Chúa Thương Xót cũng
gợi lên Bí tích Thánh Thể nữa đúng không?
Đúng
vậy! như tôi vừa nói ở trên. Tuy nhiên, đến đây, chúng ta lại gặp một điểm vừa
tạo nên sự trùng hợp vừa tạo nên sự khác biệt giữa hai việc tôn kính. Thật vậy,
việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu gắn liền với việc tôn kính Thánh Thể; đặc biệt
qua việc làm giờ thánh trước Mình Thánh Chúa và việc rước lễ ngày Thứ Sáu đầu tháng.
Mặt khác, bức họa Lòng Chúa Thương Xót nhắc đến Bí tích Thánh Thể qua tia sáng
màu đỏ phát ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu, mà các Giáo phụ đã giải thích như là
máu (biểu tượng của Bí tích Thánh Thể), đang khi tia sáng màu trắng như là nước
(biểu tượng cho Bí tích Rửa Tội).
Ngoài
ra, điểm khác biệt nằm ở chỗ: Thánh nữ Margarita kêu gọi chúng ta đến gần Thánh
Tâm để làm việc đền tạ vì những tội vô ân lạnh nhạt, đứng trước tình yêu của
Chúa Giêsu, cách riêng những lần xúc phạm đến Bí tích Thánh Thể. Những ý tưởng
thường được nhắc đến là: đền bồi, phạt tạ, an ủi, hối lỗi,... Đang khi đó,
thánh nữ Faustina mời gọi chúng ta hãy đến gần Lòng Chúa Thương Xót để lãnh nhận
hồng ân của Chúa, ra như để hứng lấy những dòng nước trào ra từ cạnh sườn của
Chúa.
Nhân nói về việc sùng kính Lòng Chúa
Thương Xót, có phải Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã ban hành Thông điệp về Lòng Chúa Thương Xót phải không?
Đúng
thế, nhưng nên cẩn thận để tránh hiểu lầm. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã biết
đến chị Faustina Kowalska từ khi còn là giám mục Cracovia. Ngài đã tuyên chân
phước và hiển thánh cho chị, cũng như đã ấn định lễ kính Lòng Chúa Thương Xót
vào Chúa Nhật thứ II Phục Sinh. Đây là điều mà ai cũng biết rồi.
Mặt
khác, ngài đã viết nhiều Thông điệp, Tông huấn, Tông thư, Sứ điệp, Huấn giáo về
Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đặc biệt là Sứ điệp nhân dịp 100 năm dâng hiến loài người
cho Thánh Tâm, ký tại Varsavia ngày 11 tháng 6 năm 1999, tóm tắt những lần ngài
đã can thiệp về đề tài Thánh Tâm. Thông điệp Dives in misericordia được ban hành
ngày 30 tháng 11 năm 1980, bàn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ở
đây, đối tượng suy niệm của Thông điệp không phải là Đức Kitô, nhưng là Đức
Chúa Cha, Đấng đã mặc khải Lòng Thương Xót qua Đức Kitô. Thông điệp cũng đề cập
đến Thánh Tâm Chúa Giêsu ở số 13. Từ đó, người ta cũng vạch ra một điểm mới
trong việc tôn kính Lòng Thương Xót của Chúa, đó là: tuy hướng đến Chúa Giêsu
Phục Sinh, nhưng mở rộng đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Dù nói gì đi nữa, điều quan
trọng là chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa.
Trên đây, Cha nói đến cả hai lòng tôn
sùng đều dành cho Chúa Giêsu. Thế nhưng, Thông điệp của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II về Lòng Chúa Thương Xót lại hiểu về Chúa Cha. Tại sao có sự khác biệt
như vậy?
Không
có gì khác biệt quan trọng. Cụm từ “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” được trích
từ thư thánh Phaolô gửi cộng đoàn Epheso (Ep 2,4). Thông điệp cũng trưng dẫn dụ
ngôn của người cha nhân lành đón tiếp đứa con hoang đàng. Đức Giêsu là hiện
thân của lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại: Đức Giêsu mạc khải
chân lý này không những bằng lời giảng mà còn bằng hành động, khi trao hiến mạng
sống cho chúng ta: qua cuộc đời của Đức Giêsu, chúng ta có dịp cảm nghiệm Thiên
Chúa Cha yêu thương chúng ta như thế nào: Ngài yêu thương đến nỗi đã ban chính
Con Một của mình cho chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Ngài vì lòng thương xót ấy,
và chúng ta xin Cha đổ tràn Thánh Linh xuống tâm hồn chúng ta để chúng ta có khả
năng tin tưởng vào Ngài và cảm thông với tha nhân.
(Lm.
Giuse Phan Tấn Thành, OP)
[1] Xc. Thánh Thomas
Aquinas, Summa Theologiae, II-II.30.4; hoặc: Summa Theologiae, I-II. 113.9; hoặc
John Paul II, Dives in Misericordia, ss. 4,6…
[2] Hồng y Walter
Kasper, Lòng Thương xót, Khái niệm căn bản của Tin Mừng và chìa khóa cho đời sống
Kitô hữu., chương II: Tiếp cận Tổng quát; 1/ Tiếp cận Triết học.
[3]
Xc.
Giuse Nguyễn Hữu Nghị O.P., Thánh Thomas bàn về sáng tạo, sự dữ và nguyên nhân
đệ nhất, Trung Tâm Học Vấn Đaminh, 2015, tr. 9-11.
[4] Épictète,
Entretiens, III, XIII, 11. Trích lại trong Ivan Gobry, Le Vocabulaire grec de
la philosophie, ellipses, 2002
[5] Stobée, Éclogues,
II, VII, nt.
[6]
Diogène Laerce, Vies,
doctrines et sentences des philosophes illustres, VII, 117. nt.
[7] Marc Aurèle, IX,
31, nt.
[8] Épictète, Manuel,
XXIX, 7; Cicéron, Tusculanes. V, VII, 17, nt.
[9] Thánh Thomas Aquinas, Summa
Theologiae, I, q.1, a.8, ad. 2.
[10] A. Schopenhauer, Le Monde comme
volonté et comme représentation, p. 70-71. Trích lại trong Alain Roger, Le
Vocabulaire de Schopenhauer, Ellipses 1999
[11] A. Schopenhauer, De la Quadruple
racine du principe de Raison suffisante, p. 235. Trích lại trong Alain Roger,
Le Vocabulaire de Schopenhauer, Ellipses 1999
[12] A. Schopenhauer, Le Fondement de
la morale, p. 118. Trích lại trong Alain Roger, Le Vocabulaire de Schopenhauer,
Ellipses 1999.
[13] A. Schopenhauer,
Le Fondement de la morale, p. 117. Trích lại trong Alain Roger, Le Vocabulaire
de Schopenhauer, Ellipses 1999
[14] A. Schopenhauer,
Le Fondement de la morale, p. 118. Trích lại trong Alain Roger, Le Vocabulaire
de Schopenhauer, Ellipses 1999
[15] Hồng y Walter
Kasper, Sđd, chương I,1
[16] Thần học phân biệt
“ân sủng bất thụ tạo”, tức là chính Chúa; và “ân sủng thụ tạo”, tức là những ân
huệ khác với chính bản thân Chúa. Khi lãnh nhận ân sủng, dù là ân sủng thụ tạo,
người tín hữu được nhắc nhở phải biết tìm trở về với ân sủng bất thụ tạo…
[17] Xc. Ủy Ban Thần Học
Quốc Tế, Văn kiện Hiệp thông nhân vị và quản lý tạo vật, 2002, số 4.
[18] Xc. Giuse Lê Minh Thông, O.P. Tình
Yêu và Tình Bạn trong Ga 15,9-17, Trung Tâm Học Vấn Đaminh, 2009, trang
129-148.
[19] Trong bài này, chữ
“ngã vị” và chữ “ngôi vị” được dùng lẫn lộn, tùy theo cách nói quen thuộc trong
mỗi hoàn cảnh mà thôi.
[20] John Paul II, Tông Huấn
“Familiaris Consortio”, về Gia Đình, số 18.
[21] John Paul II, Tông Huấn “Familiaris
Consortio”, về Gia Đình, số 13.
[22] John Paul II,
Tông Huấn “Familiaris Consortio”, về Gia Đình, số 43.
[23] John Paul II, Tông
Huấn “Familiaris Consortio”, về Gia Đình, số 43.
[24]
Xc. Felippe
Gomez S.J, Kitô Học phần II, Lớp Liên Dòng Mến Thánh Giá, Tp. HCM, 2001, chương
IX.
[25] John Paul II, Thông điệp “Dives In Misericordia”,
Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót, ngày 30-11-1980, n. 6.
[26]
Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp “Dives In Misericordia”, Thiên Chúa giàu lòng
từ bi thương xót, ngày 30-11-1980, số 58. Một Danh Hiệu Khác Của Tình Yêu.
[27] Sách Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo, số 478.
0 comments:
Đăng nhận xét